Tịnh
Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
phần 11
Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh
Không
Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010
Địa điểm: Hương
Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ
Trang
Tập 21
Khi sanh khởi, tác
dụng gồm ba điều:
1) Thứ nhất
là “châu biến pháp giới”
(trọn khắp pháp giới), “đỗng
triệt” (洞徹) là trọn khắp pháp giới. “Linh minh đỗng triệt” là trọn khắp
pháp giới hư không giới nó đều hoàn toàn biết,
nó có tác dụng ấy! Hiện tượng vật chất
cũng như vậy, mà hiện tượng tinh thần vẫn
như vậy. Nói theo Phật pháp, hiện tượng vật
chất và hiện tượng tinh thần dung hợp với
nhau; tuy là hai thứ, nhưng chúng chẳng tách rời! Trong
khi chúng ta học tập vấn đề này, dùng điện
ảnh hiện thời để làm tỷ dụ, đặc
biệt là TV, v́ trong hiện tại, gia đ́nh nào cũng hầu
như hằng ngày chẳng rời khỏi TV. Tôi tỷ dụ
màn h́nh như tự tánh, các h́nh ảnh trong TV ví như các hiện
tượng dao động sanh khởi, tức là hiện
tượng tinh thần và vật chất vĩnh viễn
chẳng thể tách ĺa tự tánh. Hễ tách ĺa th́ chúng (các
hiện tượng vật chất và tinh thần) sẽ
không c̣n nữa, chúng ắt phải hiển thị trên màn
h́nh. Không có màn h́nh, chúng chẳng thể hiển thị. Màn
h́nh là chân tánh; những h́nh tượng ấy là huyễn
tướng. Một đằng là chân, một đằng
là vọng. Chân là ǵ? Tướng được hiện
trên màn h́nh sanh diệt trong từng sát-na. Nó có sanh diệt
nên là hư huyễn, chẳng thật sự tồn tại.
Màn h́nh là vĩnh hằng, vĩnh hằng không thay đổi,
đó là Chân. Nhưng quư vị phải hiểu: Chân vọng
bất nhị, chân vọng nhất thể, diệu dụng
ở chỗ này. Khi nó khởi ra tác dụng th́ sự dao
động ấy đúng là trọn khắp pháp giới.
2) Loại thứ
hai là “xuất sanh vô tận”.
Trong tự tánh có A Lại Da. A Lại Da là thức biến.
A Lại Da là cái thức năng biến (có thể biến),
hết thảy các hiện tượng là sở biến
(cái được biến hiện). Y báo và chánh báo trang
nghiêm trong mười pháp giới là sở biến. Năng
và Sở bất nhị, năng biến và sở biến là
một, không hai. A Lại Da ở đâu? A Lại Da ở
trong Tướng Phần, trong Kiến Phần và Tướng
Phần đều có, đều chẳng tách rời. Nghiệp
Tướng, Chuyển Tướng, Cảnh Giới Tướng
tuy một mà ba, tuy ba mà một, quyết định chẳng
thể độc lập. V́ thế, gọi là hư huyễn,
huyễn tướng, mộng, huyễn, bọt, bóng. Bất
luận dưới trạng thái nào, Thể của chúng
đều là “trạm tịch
thường hằng”, “trạm”
(湛) là thanh tịnh, “tịch” (寂)
là tịch diệt. Chúng ta dùng cương lănh tu học trong
tựa đề kinh này để nói sẽ dễ hiểu:
Trạm là thanh tịnh, Tịch là b́nh đẳng, Thường
Hằng là vĩnh hằng bất biến. Những chữ
này nhằm miêu tả tự tánh và sự khởi tác dụng
của tự tánh. Thể, Tướng và Dụng như
kinh Hoa Nghiêm đă giảng đều thuộc trong một
câu này (trạm tịch thường hằng). V́ vậy, câu
này quả thật chẳng dễ hiểu cho lắm!
Tiếp theo là “cô minh lịch lịch” (riêng
sáng vằng vặc) cũng là h́nh dung. “Cô” (孤: một
ḿnh) là chỉ có tự tánh, thực sự chỉ có tự
tánh là bất sanh, bất diệt, chẳng có đối lập,
chẳng có tương đối. Hễ khởi lên tác dụng
th́ có tương đối, quư vị thấy tinh thần và
vật chất là tương đối. Tuy tương
đối, chúng dung hợp với nhau, trong tinh thần có vật
chất, trong vật chất có tinh thần. Hôm qua, có một
vị đồng học t́m được trên mạng
Internet, hôm nay đă làm thành DVD, tối qua tôi có xem một
chút, h́nh như [đoạn phim ấy] dài bốn
mươi lăm phút. Đó là báo cáo gần đây nhất của
một nhà khoa học Mỹ đang khảo sát, nghiên cứu
nhằm chứng tỏ nước có kư ức. Nếu sau
khi phát hiện này được xác nhận, trong Vật Lư
Học sẽ dấy lên một cuộc cách mạng rất
lớn, cách mạng ǵ vậy? Hiện thời, chúng ta nói khoáng
vật chẳng phải là sinh vật, nhưng nghiễm
nhiên là trong ấy có thấy, nghe, hay, biết, lại c̣n có
kư ức. Có kư ức th́ có thể báo thù hay không? Chúng ta xử
tệ với nó, nó có báo thù hay không? Nếu có báo thù sẽ phiền
lắm. Ngày nay, chúng ta phá hoại núi, sông, đại địa
trên địa cầu, phá hoại chúng. Nếu chúng ghi hận,
sẽ báo thù; chúng nó sẽ báo thù bằng động đất,
bằng thiên tai, rất đáng sợ! Do vậy, trong kinh
giáo, đức Phật một mực dạy chúng ta hăy
“cung kính hết thảy”. Trong Phật pháp nói tới luân lư,
luân lư là nói về quan hệ. Người thế gian chúng ta
nói tới luân lư th́ chỉ nói về quan hệ giữa con
người, Ngũ Luân là quan hệ cha con, quan hệ vợ
chồng, quan hệ vua tôi, quan hệ anh em, quan hệ bằng
hữu, nói tới những mối quan hệ này. Nhưng
quan hệ được giảng trong Phật pháp không chỉ
là quan hệ giữa con người với nhau, mà c̣n là quan
hệ giữa con người và hết thảy động
vật, Phật pháp giảng khá nhiều quan hệ! Quan hệ
giữa con người và các chiều không gian khác nhau, trong
các chiều không gian khác biệt lại có sinh vật, c̣n có mối
quan hệ giữa con người và hoa cỏ cây cối,
đó là quan hệ với thực vật, quan hệ giữa
con người và núi, sông, đại địa, quan hệ
giữa con người với trọn khắp pháp giới
hư không giới, luân lư được giảng hết sức
rộng!
Sau khi đă biết
quan hệ, đức Phật sẽ dạy cho chúng ta một
tâm thái: Cung kính hết thảy! Quư vị thấy sám nghi
trong Phật pháp vừa mở đầu bèn: “Nhất tâm đảnh lễ, nhất
thiết cung kính” (nhất tâm đảnh lễ, hết
thảy cung kính). Chúng ta cung kính hoa, cỏ, cây cối, cung
kính núi, sông, cung kính vạn pháp trong vũ trụ, không có ǵ
chẳng dùng tâm cung kính. Nguyện thứ nhất của Phổ
Hiền Bồ Tát là “lễ kính
chư Phật”, bao gồm quan hệ luân lư được
giảng trong nhà Phật. Đối xử tử tế với
vạn vật, hoa, cỏ, cây cối, chúng nó có Thọ,
Tưởng, Hành, Thức; trong những năm qua, chúng tôi
cũng chứng thực chuyện này. Chúng tôi trồng trọt
rau dưa, cây ăn trái đều có cảm ứng, chúng ta
khởi tâm động niệm chúng nó sẽ biết, đều
có cảm ứng. Chúng tôi đối xử tử tế với
chúng, chúng cũng báo đáp rất tốt đẹp: Lá đặc
biệt xanh, hoa đặc biệt thơm, quả đặc
biệt ngọt, chúng nó báo đáp đấy! Nếu những
loài chim nhỏ, trùng nhỏ muốn ăn những loài rau
dưa, hoa quả ấy, chúng tôi ước định với
chúng nó, chúng tôi cũng chiếu cố chúng nó, chúng nó cũng
chiếu cố chúng tôi. Do vậy, vườn rau của
chúng tôi nhất định chừa ra một khu nhỏ, khu
ấy chuyên dành cho tiểu trùng ăn. Chúng đến đó
ăn, chẳng quấy nhiễu những nơi khác. Cây
ăn trái cũng vậy, chúng tôi chỉ định mấy
cây chuyên dành cho các loài chim nhỏ, chim tới ăn trái cây, sẽ
ăn trên mấy cây ấy. Nếu cây không được chỉ
định sẵn, chúng nó chẳng quấy nhiễu. Do
chúng tôi đối xử hết sức tốt đẹp
với những loài trùng nhỏ, chim nhỏ ấy, đôi
bên tôn trọng lẫn nhau, chiếu cố lẫn nhau, cho
nên hoa quả chẳng cần thuốc sát trùng. Thuốc sát
trùng có hại, khi chim nhỏ ăn vào sẽ mắc bệnh,
con người ăn vào lâu ngày cũng sanh bệnh, bản
thân trái cây cũng bị biến chất. V́ thế, chớ
nên dùng những thứ ấy! Không chỉ chớ nên dùng thuốc
sát trùng, mà phân hóa học cũng chớ nên dùng. Chúng ta chẳng
cần đến những thứ ấy, dùng thiện tâm
đối đăi những tiểu động vật và hoa,
cỏ, cây cối, sẽ thấy đặc biệt tốt
đẹp. Những nông phu lân cận đến thăm nông
trường của chúng tôi đều vô cùng kinh ngạc: Các
vị dùng phương pháp ǵ mà trồng tốt đẹp ngần
ấy? Tôi bảo họ, tôi dùng phương pháp Niệm Phật
để trồng. Trong vườn rau, vườn cây
ăn quả, chúng tôi đặt máy niệm Phật, suốt
hai mươi bốn giờ phát ra Phật hiệu “A Di
Đà Phật” cho cây cối nghe. Chúng tôi chỉ dùng A Di
Đà Phật để trồng trọt, những năm
qua trồng trọt rất thành công! Vậy th́ quư vị hăy
nói, đó là đạo lư ǵ? Ở đây nói “linh minh đỗng triệt, trạm tịch thường
hằng” chính là đạo lư và nguyên lư ấy, nó chẳng
ĺa tự tánh, từ trong tự tánh biến hiện. Do vậy,
chúng ta tùy thuận Tánh Đức th́ thứ ǵ cũng tốt
đẹp, trái nghịch Tánh Đức sẽ xảy ra phiền
phức liền! Khoa học kỹ thuật trái nghịch
Tánh Đức, có thể trồng trọt quả, hạt
to đùng, nhưng chẳng ngọt, chẳng có mùi vị
ǵ, thoạt nh́n ngon lành lắm, ăn vào chẳng có mùi vị
ǵ! Đó là ǵ? Đấy là thiên nhiên báo thù, chúng ta đừng
nên đối đăi với chúng như thế!
Mấy
câu tiếp theo đều là tán thán: “Bỉnh hách hư không” (rạng ngời hư
không). Đây là tán thán “hàm dung
Không Hữu” (dung chứa Không và Có) trong ba thứ trọn
khắp [như sách Hoàn Nguyên Quán đă nói]; đấy
cũng là như nhà Phật thường nói: “Tâm bao thái hư, lượng châu
sa giới” (tâm bao trùm hư không, lượng trọn khắp
các cơi có số lượng nhiều như cát), chẳng có ngằn
mé. “Linh quang độc diệu,
huưnh thoát căn trần” (linh quang riêng chiếu, vượt
thoát căn trần), đây là đặc biệt nói với
người tu hành, người tu hành hăy nên làm như thế.
“Linh quang độc diệu”
là nói về trí huệ, trí huệ viên măn. Trí huệ viên măn do
đâu mà có? Quư vị có thể buông căn trần xuống,
trí huệ và đức tướng trong tự tánh thảy
đều hiện ra, “căn”
là lục căn, “trần” là
lục trần. Thật ra, ở đây vẫn nói về lục
thức; nói cách khác, chớ nên chấp tướng! Căn và
trần là hiện tượng vật chất. Lục thức:
Trong căn trần bao gồm thức. Căn, trần, thức
hợp thành mười tám giới. Thức là hiện
tượng tâm lư. Hiện tượng vật chất và hiện
tượng tâm lư thảy đều phải buông xuống,
v́ sao? Chúng là giả. “Linh quang độc
diệu” là chân, linh quang độc diệu là trí huệ
Bát Nhă sẵn có trong tự tánh, vạn đức, vạn năng.
Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă dạy: “Hết thảy chúng sanh đều
có trí huệ và đức tướng của Như Lai”.
Chữ “linh quang” chỉ
điều ấy, chỉ cần quư vị buông phân biệt,
chấp trước xuống, nó sẽ hiển hiện. “Cố Liên Tŕ đại sư
tán viết: Đại tai chân thể, bất khả đắc
nhi tư nghị giả, kỳ duy tự tánh dư” (V́
thế, Liên Tŕ đại sư ca ngợi: “Lớn thay chân
thể! Chẳng thể nghĩ bàn th́ chỉ có mỗi tự
tánh mà thôi”). Những câu này đều nhằm tán thán tự
tánh. Tự tánh cũng là bất đắc dĩ, gượng
đặt tên là “tự tánh”, như trong phần trước
đă nói: Ngay cả cái tên “tự
tánh” cũng đừng nên chấp trước; hễ
quư vị chấp trước th́ cũng trật rồi!
Đoạn
tiếp theo là: “Thật Tướng
chi chỉ, như thượng thô minh” (Tông chỉ của
Thật Tướng đă được giảng thô thiển
như trên đây), tông chỉ của Thật Tướng đă
được giảng đại khái trong đoạn
trước. Hết thảy các kinh Đại Thừa
đều căn cứ trên Thật Tướng của các
pháp để nói, đấy là chân tướng của hết
thảy các pháp. Đức Phật giảng kinh căn cứ
vào đâu? Căn cứ trên chân tướng của hết
thảy các pháp để nói. Nói những ǵ? Những ǵ Phật
nói cũng chẳng rời khỏi chân tướng của hết
thảy các pháp. Chúng ta có thể nói: Thích Ca Mâu Ni Phật, thậm
chí hết thảy kinh giáo do mười phương ba
đời hết thảy chư Phật Như Lai đă
nói, đều nhằm giảng những ǵ? Thật Tướng
của chư pháp. Nếu dùng một câu đơn giản,
gần gũi để nói th́ là “giảng về chân tướng
của vũ trụ vạn pháp”, giảng về điều
ấy. Tiếp đó, lại nói về bản kinh này: “Chí ư bổn kinh thể tánh”
(c̣n như Thể Tánh của kinh này), đối với bộ
kinh Vô Lượng Thọ này, “hà
đắc xưng vi Thật Tướng da?” (cớ sao gọi
là Thật Tướng), cũng có thể gọi là Thật
Tướng ư? “Hạ thân kỳ
thuyết”, [nghĩa là] tiếp đó bèn nói rơ, quả
đúng như vậy! “Thế
Thân Bồ Tát”, ngài Thế Thân (Vasubandhu) c̣n gọi là Thiên
Thân, trong Văng Sanh Luận có mấy câu như thế này: “Trang nghiêm Phật độ công
đức thành tựu, trang nghiêm Phật công đức
thành tựu, trang nghiêm Bồ Tát công đức thành tựu,
thử tam chủng thành tựu nguyện tâm trang nghiêm, ưng
tri” (trang nghiêm cơi
Phật công đức thành tựu, trang nghiêm Phật công
đức thành tựu, trang nghiêm Bồ Tát công đức
thành tựu. Nên biết...). Ba thứ thành tựu ấy
là thành tựu trong Tây Phương Cực Lạc thế giới:
Phật độ (cơi nước Phật) là y báo, Phật,
Bồ Tát là chánh báo. Phật là buông toàn bộ vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước xuống. Bồ Tát là
đang buông xuống, chưa buông sạch sành sanh, chưa triệt
để, đấy là Bồ Tát. Bồ Tát (Boddhisattva) là
tiếng Phạn, Huyền Trang đại sư giải
thích, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Giác Hữu T́nh. Hữu
T́nh (Sattva) là c̣n có t́nh thức, t́nh thức chưa đoạn,
nhưng đă giác ngộ. Phật th́ sao? Phật là Giác, dùng
một chữ này là được rồi, phía sau chẳng
có Hữu T́nh. Phật thật sự giác ngộ viên măn rốt
ráo; Bồ Tát tuy giác ngộ, nhưng t́nh thức chưa
đoạn, Huyền Trang đại sư dịch theo cách ấy.
Chúng ta gọi những bản dịch trước thời
Huyền Trang đại sư là Cổ Dịch, cổ
đại đức dịch chữ Bồ Tát thành Đại
Đạo Tâm Chúng Sanh, Đại Đạo Tâm là Giác, Chúng
Sanh là Hữu T́nh, cũng dịch rất hay! Quả thật
là từ Huyền Trang đại sư trở đi, dùng
cách gọi Bồ Tát là Giác Hữu T́nh khá nhiều!
Ba
thứ thành tựu này là y báo và chánh báo trang nghiêm. Quư vị
thấy thầy là một vị Phật trang nghiêm, đó là
công đức của thầy đă thành tựu, Bồ Tát là
học tṛ. Do vậy, trong thế giới Tây Phương,
trong thế giới Hoa Tạng, chúng ta chỉ nh́n thấy
người trong các thế giới ấy gồm hai loại
người: Một là Phật, hai là Bồ Tát. Trừ hai
loại này ra, dường như kinh chẳng nói tới ai
khác. Nếu chúng ta quan sát cẩn thận thế giới ấy,
sẽ thấy thế giới ấy giống như ǵ? Thế
giới ấy là trường học. Trong trường học,
chỉ có thầy và học tṛ, không có tổ chức chánh phủ
nào! Trong thế giới Cực Lạc chẳng nói có quốc
vương, trước nay chưa hề nói. Thế giới
Hoa Tạng cũng không có một thiên vương nào! Do vậy,
những tổ chức như trong thế gian chúng ta chỉ
trong lục đạo mới có, bốn thánh pháp giới chẳng
có. Trong lục đạo bèn có, Sắc Giới thiên có Đại
Phạm Vương (Brahma), Sơ Thiền Thiên có Ma Hê Thủ
La Thiên Vương (Maheśvara), Tứ Thiền Thiên; trong Vô Sắc Giới không có!
Vô Sắc Giới không có hiện tượng vật chất,
chỉ có tinh thần. Nay chúng ta nói tới Duy Vật và Duy Tâm,
th́ Tứ Thiền và Tứ Không [có thể tạm hiểu
là tương ứng với Duy Vật và Duy Tâm]. Tứ Không
Thiên là duy tâm, người nơi ấy chẳng có nhục thể,
tức là chẳng có hiện tượng vật chất.
Do vậy, họ cũng chẳng cần sống trong cung
điện, chẳng cần! Chúng ta gọi họ là “linh giới”,
hoàn toàn là hiện tượng tinh thần. Nếu không có nhục
thể th́ là u linh; nhưng trong vật chất, nhất
định có hiện tượng tinh thần. Trên thực
tế, trong hiện tượng tinh thần vẫn có hiện
tượng vật chất, nhưng chúng ta chẳng thấy
hiện tượng vật chất ấy, Phật, Bồ
Tát thấy được, A La Hán cũng thấy được.
Đấy là nói rơ tinh thần và vật chất vĩnh viễn
chẳng tách rời. Trong sắc có hiển sắc và bất
hiển sắc, nhà Phật gọi [bất hiển sắc]
là Vô Biểu Sắc (Avijñapti-rūpa). Thật ra, loại sắc này đối với
chúng ta cũng chẳng khó hiểu. Mỗi người chúng
ta đều có kinh nghiệm nằm mộng, trong mộng có
sắc hay không? Có sắc tướng, chính ḿnh nh́n thấy
sắc tướng ấy rơ ràng, nhưng người khác chẳng
nh́n thấy, đó là Vô Biểu Sắc. Chúng ta tưởng
tượng, nghĩ đến Bắc Kinh, nghĩ đến
Cố Cung, Cố Cung bèn hiện tướng ngay trong óc,
chính chúng ta nghĩ đến rất rơ ràng, chúng ta biết,
nhưng khi ta nghĩ, người khác chẳng biết. Thế
nhưng đối với người có công phu, quư vị nghĩ
ǵ, hiện ra tướng ǵ, người ấy sẽ thấy,
nhưng người thường chẳng thể thấy.
Điều này chứng tỏ vật chất và tinh thần
vĩnh viễn chẳng thể tách rời. Nói duy tâm hay duy
vật đều chẳng thỏa đáng, chúng là một Thể,
chẳng thể chia thành hai phương diện. Chia thành
hai phương diện là trật rồi! Giống như
hiện thời chúng ta nói đến TV, màn h́nh TV và sắc
tướng chẳng phải là một chuyện, nhưng
chúng là nhất thể. Quư vị chẳng có cách nào tách rời
chúng; hễ tách rời sẽ chẳng có. Câu tiếp theo rất
quan trọng, phải nên biết, quư vị cần phải biết:
“Lược thuyết nhập nhất
pháp cú cố” (nói đại lược [th́ ba thứ
trang nghiêm ấy] đều gồm trong một pháp cú), pháp
cú ǵ vậy? Tiếp đó, sách có giải thích: “Nhất pháp cú giả, vị
thanh tịnh cú” (một pháp cú là thanh tịnh cú). Thanh tịnh
cú (câu thanh tịnh) là ǵ? “Thanh tịnh
cú giả, vị chân thật trí huệ vô vi Pháp Thân cố”
(Thanh tịnh cú là “Pháp Thân vô vi trí huệ chân thật”). Nói rơ
ràng, trí huệ chân thật vốn trọn đủ trong tự
tánh của chúng ta, đấy cũng là như trong kinh giáo,
đức Phật thường nói “kiến, văn, giác, tri”, có thể thấy, có thể
nghe, có thể cảm nhận, có thể biết. Đă thế,
trong kiến văn giác tri chắc chắn chẳng nẩy
sanh sai lầm, v́ sao? Nó là tánh đức, là trí huệ chân thật.
Khi giác ngộ, người ấy chẳng lấy thân này
làm thân, thân này là sắc thân, là nhục thân, người ấy
chẳng coi cái thân này làm thân [chân thật], biết thân này là
giả, nên lấy Pháp làm thân. Pháp là ǵ? Toàn thể vũ trụ.
Trong Phật pháp nói hết thảy vạn vật trọn
khắp pháp giới hư không giới thảy đều
là thân, do tự tánh biến hiện ra. Thân thể này của
chúng ta vẫn là tự tánh, chẳng ĺa khỏi tự tánh, giống
như chúng ta xem TV, tất cả sắc tướng chẳng
thể rời khỏi màn h́nh. Pháp Thân là ǵ? Màn h́nh là Pháp Thân,
hết thảy các tướng được hiện trong
màn h́nh đều là Pháp Thân, không có ǵ chẳng phải là Pháp
Thân. Sau khi chúng ta hiểu rơ thân này chính là Pháp Thân, cũng là một
trong các Pháp Thân. Tất cả hết thảy thân động
vật đều là Pháp Thân, là một, không hai với ta, quả
thật là một Thể. Chúng ta khởi tâm động niệm,
mỗi thân ấy đều nhận được tin tức,
mỗi cá nhân khởi tâm động niệm đều có
thể giao thoa lẫn nhau, vô cùng nhạy bén, chẳng sai lầm
tí nào! Cho đến cây cối, hoa, cỏ, núi, sông, đại
địa, vô lượng vô số tinh cầu, tinh hệ
trong vũ trụ, chẳng có ǵ không liên quan mật thiết
với nhau, trao đổi khít khao với nhau trong từng
sát-na. Nhà Phật dùng cái lưới làm tỷ dụ, tức
là lưới trời của Đế Thích Thiên, giao thoa
như vậy. Do vậy, theo vũ trụ quan của nhà Phật,
vũ trụ là một Thể, có quan hệ mật thiết
như vậy, đấy là Pháp Thân. Pháp Thân vô vi, nhưng
không ǵ chẳng làm. “Vô vi” là nói về tự tánh, “không ǵ chẳng
làm” là nói về A Lại Da. A Lại Da là vọng tâm, tự
tánh là chân tâm, chân vọng bất nhị. V́ thế, điều
này khác với triết học! Thời đầu Dân Quốc,
Âu Dương Cánh Vô đại sư[1]
trong bài phát biểu nhân dịp giảng diễn lần thứ
tư tại đại học Trung Sơn, khi ấy
cũng gây chấn động trong giới học thuật.
Ông ta nói: “Phật pháp chẳng
phải là tôn giáo, chẳng phải là triết học, mà là
nhu cầu tất yếu trong hiện thời”, nêu ra một
lập luận như thế. Chẳng phải là tôn giáo th́
chúng ta chẳng bàn tới, v́ sao chẳng phải là triết
học? Triết học có Năng và Sở (chủ thể
và khách thể, chủ quan và khách quan), Phật pháp tuy nói
đến Năng và Sở, nhưng Năng và Sở là một,
chẳng hai. Do vậy, đấy chẳng phải là phạm
trù triết học (Category)[2],
nên chẳng thể bảo Phật giáo là triết học
được! Vậy th́ nên nói là ǵ? Phật pháp là Phật
pháp, không thể dùng danh từ nào khác để thay thế!
Đó là cách nói của Âu Dương đại sư, chúng
ta nghe xong cũng cảm thấy rất có lư, ông ta nói Phật
giáo là nhu cần tất yếu trong hiện thời, câu nói
này hết sức nói thẳng vào trọng tâm!
Do vậy,
vô vi là Thể, hữu vi là Dụng. Vô vi là thanh tịnh, tịch
diệt; hữu vi là cái thứ hai trong ba thứ “trọn khắp” (tam chủng
châu biến) [được nói trong Hoàn Nguyên Quán]: “Xuất sanh vô tận”. Sau khi
chúng ta hiểu rơ chân tướng, dùng tâm thái ǵ để
đối ứng? “Hàm dung Có và
Không”. Tâm lượng của quư vị vốn to như vậy,
hết thảy đều có thể bao dung. Bao dung th́ sẽ
chẳng so đo, đúng là “tâm
bao thái hư, lượng châu sa giới”, vốn là như
vậy, mỗi mỗi đều là như vậy. “Thử luận trực hiển Sự
Lư vô ngại chi Nhất Chân pháp giới. Tức Sự nhi
chân, đương tướng tức đạo” (Luận
này đă hiển thị trực tiếp Nhất Chân pháp giới
Sự Lư vô ngại, do chính từ Sự mà nhập Chân, ngay
nơi tướng chính là đạo). Đây là nói về
chư Phật, Bồ Tát và hoàn cảnh sống của họ
trong thế giới Cực Lạc, nay chúng ta gọi đó
là vũ trụ. Cụ Hoàng vô cùng tán thán mấy câu này của
Thế Thân Bồ Tát trong Văng Sanh Luận. Khi chúng tôi gặp
mặt, cụ cũng thường nhắc tới, cũng
thường trích dẫn mấy câu này để chỉ rơ
thế giới Cực Lạc là Nhất Chân pháp giới Sự
Lư vô ngại. “Tức Sự nhi
chân”, Sự là Tướng, Chân là Tánh, Tánh Tướng bất
nhị, Tánh Tướng như một. “Đương tướng tức đạo”, Đạo
là nói về Tánh, Tướng là nói về Sự. Hai câu này (tức
“tức Sự nhi Chân” và “đương tướng tức
đạo”) có ư nghĩa tương đồng. “Cực Lạc thế giới chủng
chủng y chánh trang nghiêm, nhất nhất giai thị chân thật
trí huệ vô vi Pháp Thân” (Các thứ y báo và chánh báo trang
nghiêm trong thế giới Cực Lạc, mỗi thứ
đều là Pháp Thân vô vi trí huệ chân thật). Ở
đây, cụ Hoàng đă giảng ư nghĩa lời nói của
Thiên Thân Bồ Tát theo Lư, “chân thật”
là tự tánh, “trí huệ” là Bát
Nhă, “vô vi” là Đức, Pháp
Thân là Tướng, chúng là nhất thể. “Nhất nhất tức thị Thật Tướng”
(mỗi mỗi chính là Thật Tướng). Pháp vốn là
như vậy, tự tánh là Thật Tướng, Bát Nhă là Thật
Tướng, Đức cũng là Thật Tướng, Tướng
cũng là Thật Tướng. “Cố
vân bổn kinh dĩ Thật Tướng vi Thể dă” (V́
thế nói: Kinh này lấy Thật Tướng làm Thể vậy).
Đây là nói theo Văng Sanh Luận của Thiên Thân Bồ Tát.
Tiếp
theo đó: “Minh Cừ Am đại
sư viết: ‘Quỳnh lâm ngọc chiểu” (Cừ Am
đại sư đời Minh nói: “Rừng quỳnh, ao ngọc”),
“quỳnh lâm” là cây báu trong thế
giới Tây Phương, “ngọc
chiểu” là ao sen. Trong Đại Bổn lẫn Tiểu
Bổn chúng ta đều thấy điều này. “Trực hiển ư tâm nguyên”
(hiển hiện trực tiếp nguồn tâm), “tâm nguyên” là tự tánh. “Thọ lượng, quang minh,
toàn chương ư tự tánh” (thọ lượng,
quang minh, phô bày trọn vẹn tự tánh), thọ lượng
là đức, quang minh là trí, phô bày trọn vẹn tự
tánh, thảy đều là tự tánh viên măn thấu lộ, chúng
ta thường nói là “tự
tánh phóng quang, quang minh biến chiếu” (tự tánh tỏa
ánh sáng, quang minh chiếu khắp) chính là nói đến ư
nghĩa này. “Chương” là
“chương hiển” (彰顯: phô bày rơ rệt). Trong bộ Viên
Trung Sao, U Khê đại sư cũng nói đến ư
nghĩa này giống như vậy: “Quỳnh lâm, ngọc chiểu, thọ lượng,
quang minh, cố nhất thiết chư pháp chi tướng dă,
nhiên tắc trực hiển ư tâm nguyên, toàn chương
ư tự tánh, cố hà tướng chi khả đắc
tai” (Rừng quỳnh, ao ngọc, thọ lượng,
quang minh vốn là tướng của hết thảy các
pháp, nên chúng đă hiển lộ trực tiếp nguồn
tâm, phô bày trọn vẹn tự tánh th́ có tướng nào
để đạt được?). Tướng chính là
phi tướng, phi tướng chính là tướng, đấy
là giáo pháp Đại Thừa đến chung cực nhập
pháp môn Bất Nhị. Nhập pháp môn Bất Nhị tức
là như đức Phật thường chỉ dạy chúng
ta “chớ khởi tâm, đừng động niệm, chẳng
phân biệt, chẳng chấp trước”, quư vị sẽ
khế nhập. Làm được “chẳng phân biệt, chẳng
chấp trước” th́ vẫn chưa được, vẫn
chưa nhập pháp môn Bất Nhị. Nhập pháp môn Bất
Nhị là Pháp Thân Bồ Tát, theo như kinh Hoa Nghiêm đă giảng,
đó là bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo trở lên! Buông
phân biệt, chấp trước xuống, nhưng c̣n có khởi
tâm động niệm, quư vị vẫn chưa thoát khỏi
mười pháp giới. Chưa ra khỏi mười pháp
giới, quư vị sẽ chẳng có cách nào khế nhập cảnh
giới Bất Nhị. Đấy là một giới hạn
rất lớn, là ranh giới giữa phàm và thánh. Vượt
thoát mười pháp giới bèn minh tâm kiến tánh, chúng ta thường
nói là “thành Phật”. Cư
sĩ Giang Vị Nông chú giải kinh Kim Cang, trong bộ Kim
Cang Kinh Giảng Nghĩa của chính ông, đă giảng về
chư Phật Như Lai. Quư vị thấy ông giải thích
chữ “chư Phật” chẳng
phải là nhiều vị Phật, mà “chư Phật” là bốn mươi hai tầng cấp,
tức Thập Trụ, những địa vị ấy
đều thuộc Viên Giáo, [ngoài] Thập Trụ [ra, c̣n có]
Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa,
Đẳng Giác, Diệu Giác. Ông ta giải thích “chư Phật Như Lai” là bốn
mươi hai địa vị chư Phật Như Lai.
Minh tâm kiến tánh bèn thành Phật, minh tâm kiến tánh là đă
buông khởi tâm động niệm xuống, chẳng khởi
tâm, chẳng động niệm, đương nhiên chẳng
có phân biệt, chấp trước.
Trong
cảnh giới này, v́ sao c̣n có bốn mươi hai tầng
cấp? Không khởi tâm, không động niệm, cớ sao
vẫn c̣n có tầng cấp? Có tầng cấp th́ chẳng
phải là có khởi tâm động niệm ư? Chẳng khởi
tâm, chẳng động niệm, đức Phật nói có bốn
mươi hai tầng cấp. Chúng ta có thể hiểu: Bốn
mươi hai tầng cấp ấy chẳng thể nói là có,
mà cũng chẳng thể nói là không có, chẳng phải có, chẳng
phải không. Nếu quư vị nói có th́ do chẳng khởi
tâm động niệm, lấy đâu ra bốn mươi
hai tầng cấp? Quư vị nói chúng là không có, th́ họ (các
vị Pháp Thân Bồ Tát) chưa đoạn tập khí vô
minh. Không khởi tâm, không động niệm là đoạn
vô minh; vô minh đă đoạn rồi, nhưng c̣n có tập
khí vô minh. Tập khí vô minh có dầy hay mỏng khác nhau, nên vừa
mới đoạn vô minh, tập khí c̣n rất nồng, sau
đó, [cảnh giới] càng cao lên, [tập khí vô minh] càng nhạt
bớt. Chữ “tập khí”
cũng chẳng dễ hiểu, nên cổ đức dùng
b́nh rượu làm tỷ dụ, tỷ dụ này rất
hay! B́nh đựng đầy rượu, đổ sạch
đi, đổ hết, lau chùi sạch bóng bên trong, một
giọt cũng chẳng c̣n, thật sự chẳng có tí
rượu nào, nhưng vẫn ngửi thấy mùi. Đó gọi
là Tập Khí. Mùi vị ấy không lau mất được,
nhưng nó cũng chẳng trở ngại Sự. Quư vị
đem thứ khác đựng trong đó cũng chẳng ngại
Sự. Tập khí ấy sau một thời gian lâu dài sẽ
tự nhiên chẳng c̣n. Do vậy, trong cơi Thật Báo, họ
dụng công đoạn tập khí ấy, chẳng có cách nào
khác, nên gọi là Vô Công Dụng Đạo. Trong ấy, chớ
nên có một tí ư niệm nào! Hễ quư vị khởi niệm
sẽ đọa lạc, vậy là không được rồi!
V́ thế, người ấy chắc chắn chẳng khởi
tâm, không động niệm. Khi ấy, phiền năo đă đoạn
hết, chẳng cần phải dụng công đoạn phiền
năo. Lúc đó, tâm từ bi trong tự tánh hiện tiền, kẻ
ấy đă đạt được chân thành, thanh tịnh,
b́nh đẳng, chánh giác, từ bi trong tự tánh, các Tánh Đức
xuất hiện, người ấy và hết thảy chúng
sanh trong trọn pháp giới hư không giới sanh khởi
sự cảm ứng đạo giao, chúng sanh có cảm,
người ấy bèn ứng.
Hàng
Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo có năng lực này: Nên
dùng thân Phật để độ, bèn hiện thân Phật
để nói pháp. Như trong phẩm Quán Thế Âm Phổ
Môn [của kinh Pháp Hoa] đă nói về ba mươi hai ứng
thân [của Quán Thế Âm Bồ Tát]: Nên dùng thân ǵ để
độ được, bèn hiện thân ấy. Bản
thân Phật, Bồ Tát chẳng có ư nghĩ “ta phải hiện
thân ǵ”, [nếu các Ngài có ư nghĩ như vậy] th́ sẽ là
phàm phu. Các Ngài không có Ngă, Ngă của các Ngài là Pháp Thân, chứ
không có một cái Ngă đơn độc, không có ư niệm ấy!
Pháp Thân ở nơi đâu? Pháp Thân trọn khắp pháp giới
hư không giới, không chỗ nào chẳng tồn tại,
không lúc nào chẳng hiện diện, một niệm của
chúng ta bèn khởi cảm ứng. Do vậy, có bốn loại
cảm ứng, chắc chắn có cảm ứng. Có khi có cảm
ứng, nhưng bản thân chúng ta nghiệp chướng
quá nặng nên chẳng thể thấy được, nhưng
thật sự có cảm ứng. Biết chân tướng sự
thật này, sẽ biết: Trong hết thảy chỗ, hết
thảy lúc, chớ nên có ư niệm bất thiện. Đừng
nghĩ không ai biết! Dấy lên một niệm bất thiện,
chư Phật, Bồ Tát với số lượng chẳng
biết nhiều hơn số người trên địa cầu
bao nhiêu lần, các Ngài đều biết. Không chỉ
chư Phật, Bồ Tát biết, mà như trong mấy
đoạn trước chúng tôi cũng đă nói rất rơ
ràng, tất cả vật chất đều có kiến
văn giác tri, chúng đều biết! Ở nơi đây, chúng
ta khởi tâm động niệm, bàn ghế có biết hay không?
Biết. V́ sao? Hết thảy vật chất đều có
Thọ, Tưởng, Hành, Thức, ư niệm dấy lên,
chúng bèn cảm nhận, chúng cũng có thể suy nghĩ!
Trong
sách Hoàn Nguyên Quán đă giảng chuyện này rất rơ ràng, rất
minh bạch, nhỏ đến mức độ nào? Nhà Phật
nói “vi trần”. Ba thứ châu biến (trọn khắp) trong
Hoàn Nguyên Quán đều lấy một vi trần làm tỷ
dụ. Một hạt vi trần, nhục nhăn chẳng thể
thấy, khoa học hiện thời gọi nó là nguyên tử,
điện tử, hạt cơ bản, năng lượng
của một hạt vi trần như thế trọn khắp
pháp giới. Sau khi mê, năng lượng ấy biến
thành Thọ, Tưởng, Hành, Thức, trong tự tánh, nó
được gọi là kiến văn giác tri. Trong A Lại
Da, chúng được gọi là Thọ, Tưởng, Hành,
Thức; Thọ là năm thức trước, Tưởng
là thức thứ sáu, Hành là thức thứ bảy, cái cuối
cùng là A Lại Da Thức. Thức trong “Thọ, Tưởng,
Hành, Thức” chính là A Lại Da Thức. A Lại Da Thức
là năng lượng, hai thức thứ sáu và thứ bảy
là phân biệt và chấp trước, nay chúng ta gọi chúng
là “thông tin”. Năm thức đầu là do vật chất
khởi tác dụng, chúng có Thọ. Năm thức đầu
là Thọ, chúng có thể tiếp nhận, có năng lực
tiếp nhận. V́ thế, mỗi hạt cơ bản
đều có Thọ, Tưởng, Hành, Thức; thân thể
của chúng ta do bao nhiêu hạt cơ bản hợp thành, mỗi
hạt cơ bản đều có Thọ, Tưởng,
Hành, Thức. Trong kinh, đức Phật thường nói một
sợi lông trên thân con người, nói theo y báo, tức là nói
theo phương diện vật chất, mỗi vi trần
đều có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. V́ thế,
các nhà khoa học hiện thời dùng nước làm thí nghiệm,
[nhận thấy] nước có thể thấy, nghe, hiểu
được ư nghĩ của con người, nó có cảm
nhận, có Thọ, Tưởng, Hành. Hiện thời, họ
c̣n thí nghiệm thấy nó có kư ức, kư ức ấy là Thức.
A Lại Da Thức chứa đựng chủng tử, kư ức
ấy chính là Thức khởi tác dụng, nó có toàn bộ Thọ,
Tưởng, Hành, Thức, thảy đều trọn đủ.
Đây chính là nói trong vật chất có đủ tâm pháp. Nhà
Phật nói Ngũ Uẩn th́ Sắc là hiện tượng
vật chất, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là hiện
tượng tâm lư, bất luận trong vật thể nào
cũng đều có, nhưng quư vị chẳng nhận biết.
V́ thế, Phật pháp quả thật là phi thường! Tới
khi nào mới có thể nhận biết hiện tượng
này? Nói thông thường th́ là khi đă đại triệt
đại ngộ, minh tâm kiến tánh sẽ trông thấy hiện
tượng này, triệt để hiểu rơ, trông thấy
duyên khởi của vũ trụ. Duyên khởi của
vũ trụ là lúc nào? Ngay trong lúc này, chẳng có quá khứ
lẫn vị lai, mà là một niệm ngay trong lúc này! Thời
gian và không gian là giả, là ảo giác. Trong Phật pháp, thời
gian và không gian được gọi là Bất Tương Ứng
Hành Pháp. Nói theo cách bây giờ, Bất Tương Ứng
Hành Pháp là khái niệm trừu tượng, không có sự thật,
[duyên khởi vũ trụ là] ngay lập tức.
Hai
câu kế tiếp là: “Thử chánh
vô tướng bất tướng” (đấy chính là vô
tướng mà chẳng phải là không có tướng), vô
tướng nhưng chẳng phải là không có tướng,
câu này có ư nghĩa như vậy! “Tướng
nhi vô tướng chi chánh thể” (cái chánh thể tuy có
tướng nhưng là vô tướng), đó là Thật
Tướng. Điều này nêu rơ đức Phật nói kinh
Vô Lượng Thọ cũng là dựa trên Thật Tướng
để nói. “Cái ngô nhân tâm tánh,
lượng đồng pháp giới, linh minh đỗng triệt,
trạm tịch thường hằng, thụ cùng tam tế,
hoành biến thập phương. Cực Lạc quốc độ,
phi tại tâm ngoại. Bách giới thiên như, giai ngă bổn
cụ” (ấy là v́ tâm tánh của chúng ta lượng bằng
pháp giới, linh minh đỗng triệt, trạm tịch
thường hằng, theo chiều dọc cùng tận ba
đời, theo chiều ngang trọn khắp mười
phương. Cơi nước Cực Lạc chẳng phải
ở ngoài tâm, bách giới thiên như ta đều sẵn
đủ). Đây là chân tướng sự thật. Tâm tánh
của chúng ta lượng đồng pháp giới, pháp giới
(tức là vũ trụ) không có ngằn mé, v́ sao? Tâm tánh không
có ngằn mé. Cổ nhân Trung Quốc đă nói hai câu: “Kỳ đại vô ngoại, kỳ
tiểu vô nội” (không có ǵ lớn mà ra ngoài được,
không có ǵ nhỏ nhoi chẳng gồm trong), [đó là] người
Trung Quốc miêu tả tâm tánh. Do vậy, tôi nói tổ tiên của
chúng ta là Phật, Bồ Tát tái lai, tuyệt đối chẳng
phải là giả, họ nói hoàn toàn giống như Phật,
quư vị hăy suy nghĩ hai câu nói ấy: “Kỳ đại vô ngoại, kỳ tiểu vô nội”,
quyết định chẳng có ngằn mé, quư vị t́m ngằn
mé chẳng ra! Các nhà khoa học và vật lư học hiện
thời bảo: Vũ trụ mênh mông, chẳng có cái ǵ to lớn
vượt ra khỏi nó, Lượng Tử Lực Học
(Quantum Mechanics) nói về “kỳ
tiểu vô nội”, nghiên cứu hai cực đoan này! Nghiên
cứu cách nào đi nữa, vẫn chẳng có cách nào vượt
khỏi những ǵ kinh điển đă nói, v́ sao? Nhờ
vào các máy móc, nhờ vào toán học đều chẳng có
cách nào, đều là c̣n có giới hạn. V́ sao đức Phật
biết? Đức Phật chứng đắc bằng Thiền
Định. Khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp
trước Ngài thảy đều buông xuống; sau khi
buông xuống, chân tướng ấy bèn rơ ràng, hiện tiền.
Sau đấy mới hiểu: Khởi tâm động niệm
là vô thỉ vô minh phiền năo. Dùng từ ngữ này rất
hay, vô thỉ vô minh phiền năo, nó chẳng có khởi đầu,
v́ sao? Nhất niệm, đó là nhất niệm [vô minh].
Chúng ta bị phiền phức v́ sau một niệm lại
có một niệm khác tiếp nối, sanh ra tướng
tương tục (tướng tiếp nối). Nếu nhất
niệm là giác ngộ, tướng tương tục sẽ
chẳng sanh, ngay lập tức Thường Tịch Quang
hiện tiền. Do vậy, vấn đề chẳng có
trước hay sau, quả thật là “đương hạ nhất niệm” (một niệm
ngay trong hiện tại), quư vị chẳng nắm bắt
niệm ấy được, nó quá nhanh. Trong một giây có
bao nhiêu niệm? Nếu khảy ngón tay năm lần [trong một
giây], sẽ là một ngàn sáu trăm triệu, làm sao quư vị
có thể nắm bắt được? Do nó là giả, chẳng
phải là thật, nên chẳng cần phải quan tâm, hễ
bận tâm là trật rồi! Bận tâm sẽ sanh phiền
năo, quư vị bèn đọa vào vô minh, hết thảy đều
buông xuống là đúng, chân tâm sẽ hiện tiền. Trong
chân tâm có vô lượng trí huệ, vô lượng đức
năng, nhà Phật gọi [những điều ấy] là
công đức, vô lượng công đức trang nghiêm,
trang nghiêm là tướng hảo. V́ thế,
lượng đồng pháp giới.
Pháp
giới, nói theo những cái nhỏ nhoi th́ chẳng điều
nhỏ nhặt nào không bao gồm. Nhà Phật nói trong vi trần
có thế giới. Trong vi trần có thế giới,
nhưng vi trần chẳng ph́nh to, thế giới chẳng
rút nhỏ, chúng b́nh đẳng như nhau! Phổ Hiền Bồ
Tát có thể tiến nhập thế giới trong một vi
trần để lễ
Phật, cúng dường, nghe kinh, Phổ Hiền Bồ Tát
có năng lực ấy. V́ sao Phổ Hiền Bồ Tát có
năng lực ấy? Phổ Hiền Bồ Tát trở về
tự tánh; bởi lẽ, mỗi nguyện trong mười
đại nguyện vương của Ngài đều
tương ứng viên măn với tự tánh, Ngài có năng lực
vào thế giới trong vi trần để lễ Phật,
tham học. Chúng ta phải hiểu: Bên trong thế giới ở
trong vi trần ấy lại có vi trần, trong vi trần ấy
lại có thế giới, trùng trùng vô tận, đấy là
Pháp Tánh. Do vậy, nhà Phật thường nói: “Rộng không ngằn mé, sâu không
có đáy” là nói đến đạo lư này. Không có
[ngăn ngại, giới hạn]! Không có đáy. Pháp Tánh vốn
là như thế, vốn là như vậy. “Linh minh đỗng triệt, trạm tịch thường
hằng”, là nói về tác dụng [của Pháp Tánh]. “Thụ cùng tam tế, hoành biến
thập phương” (theo chiều dọc cùng tột ba
đời, theo chiều ngang trọn khắp mười
phương), “thụ” (豎) là nói đến “tam tế” (三際), tức quá khứ, hiện tại, vị lai; một
đằng nói về thời gian, một đằng nói về
không gian. “Hoành biến thập
phương” là nói về không gian. “Trọn khắp thời gian và không gian” là nói về
tự tánh. Sau đấy, lại nói với quư vị: “Cực Lạc quốc độ,
phi tại tâm ngoại” (cơi nước Cực Lạc chẳng
ở ngoài tâm), do tự tánh biến. “Bách giới thiên như, giai ngă bổn cụ” (bách
giới thiên như đều là thứ ta vốn sẵn
có) là nói về toàn thể vũ trụ. “Thiên như” chính là mười món Như Thị
được nói trong kinh Pháp Hoa, ngài Thiên Thai triển khai
Thập Như Thị thành Thiên Như (một ngàn món như
thị)[3].
Triển khai mười pháp giới, mỗi pháp giới
đều trọn đủ mười pháp giới, nên
[mười nhân mười] thành “bách giới”. Đấy là nói tới vô lượng
vô biên thế giới trong toàn thể vũ trụ. Những
điều được nói trong các phẩm Hoa Tạng Thế
Giới và Thế Giới Thành Tựu của kinh Hoa Nghiêm đă
giảng trọn hết tám chữ ấy, đều là những
thứ vốn sẵn trọn đủ trong tự tánh.
Kế
đó là lời kết luận, quư vị hiểu ngay: “Tâm tịnh tắc Phật độ
tịnh, độ tịnh tức ngă tâm tịnh” (Tâm tịnh
ắt cơi Phật tịnh, cơi tịnh th́ tâm ta tịnh). Nếu
hiện thời chúng ta muốn giải quyết vấn
đề của địa cầu, cứu vớt địa
cầu bằng cách nào ư? [Vận dụng] hai câu ấy
là đủ rồi, tâm chúng ta tịnh, địa cầu sẽ
thanh tịnh; địa cầu thanh tịnh, chứng tỏ
tâm chúng ta thanh tịnh, v́ chúng có cùng một Thể; cho nên cảm
ứng hết sức nhạy bén. Ngày nay chúng ta phá hoại
địa cầu, quư vị có phá hoại địa cầu
hay không? Có! Ta phá hoại địa cầu khi nào? Mỗi
ngày quư vị nghĩ đến tham, sân, si, mạn, mỗi
ngày nghĩ tổn người lợi ḿnh, chính là quư vị
phá hoại địa cầu. Quư vị v́ tự tư tự
lợi mà tạo tiếng tăm, lợi dưỡng, tham cầu
hưởng thụ ngũ dục lục trần, những
điều ấy đều là sai lầm, tâm hạnh bất
thiện tức là phá hoại địa cầu. Nói gần
gũi hơn một chút, quư vị phá hoại thân của
chính ḿnh, thân thể này là tiểu vũ trụ, bên ngoài là
đại vũ trụ. Tư tưởng bất thiện
khiến cho thân thể quư vị chẳng khỏe mạnh, thật
đấy! Chẳng giả tí nào! Thân thể con người
là một cỗ máy; nếu quư vị biết quư trọng cỗ
máy ấy, sẽ có thể sử dụng bao lâu? Trước
kia, thầy tôi là lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam cho tôi biết,
thầy tinh thông Trung Y, y học rất cao minh, cụ bảo
tôi [nếu bảo dưỡng thân thể đúng mực],
tối thiểu phải sử dụng hai trăm năm. Quư
vị không sống tới hai trăm năm là do chính ḿnh
đă làm hư hỏng [thân thể]. Do vậy, chúng ta thấy
đạo lư này trong kinh Phật: “Tâm tịnh, ắt cơi Phật thanh tịnh”. Nếu
chúng ta chỉ dùng cái tâm thanh tịnh, chắc chắn thân thể
này có thể sống đến hai trăm tuổi, mà c̣n có
thể nhiều hơn nữa. Trung Quốc có cụ Bành Tổ[4]
sống tám trăm tuổi. Kẻ b́nh phàm chúng ta chẳng dám
tin [chuyện ấy], có phải là truyền thuyết hay
chăng? Nếu chiếu theo kinh Phật để nói th́
[Bành Tổ sống đến tám trăm tuổi] là chuyện
có thể xảy ra!
Thích
Ca Mâu Ni Phật có một vị đệ tử vẫn c̣n
ở trên thế gian, chưa nhập diệt, ai vậy? Tôn
giả Đại Ca Diếp. Ngài phải đợi Di Lặc
Bồ Tát đến thế gian này thị hiện thành Phật,
đem y bát của Thích Ca Mâu Ni Phật trao cho Di Lặc Phật.
Ngài làm đại biểu, cho nên phải lưu lại thân
thể trên thế gian. Phải lưu lại bao nhiêu năm?
Phải lưu lại mấy chục ức năm. Có thể
hay chăng? Có thể chứ! Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng. Nh́n từ chỗ này, Bành Tổ tám trăm
tuổi quá dễ dàng, có trở thành vấn đề hay
chăng? Không thành vấn đề! V́ vậy, thọ mạng
của chúng ta dài hay ngắn do chính tay ta thao túng, chẳng do
người khác, phải biết điều ǵ? Tâm tịnh
là trọng yếu, tâm thanh tịnh chẳng thể có ô nhiễm!
Nghĩa là nhất định phải buông vọng tưởng,
chấp trước xuống, đối với hết thảy
các pháp thế gian và xuất thế gian chẳng chấp
trước nữa, tâm thanh tịnh hiện tiền; chẳng
c̣n phân biệt nữa, tâm b́nh đẳng hiện tiền.
Có phân biệt sẽ bất b́nh đẳng; có chấp
trước sẽ chẳng thanh tịnh. Tựa đề
kinh ghi “thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác”, thật sự đạt tới “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” sẽ tự
nhiên khai ngộ! Đấy là đại triệt đại
ngộ, minh tâm kiến tánh. Do vậy, khởi tâm động
niệm của chúng ta có quan hệ mật thiết với
thân thể của chúng ta, mà cũng có quan hệ mật thiết
với hoàn cảnh, cũng có quan hệ mật thiết với
núi, sông, đại địa. Biết mối quan hệ
này, biết chân tướng sự thật này, chúng ta sẽ
biết: Chúng ta có thể cứu địa cầu này, có thể
hóa giải tai nạn này, phương pháp là dùng “thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác”. Chính ḿnh phải nghiêm túc học tập,
lại c̣n phải giảng cho người khác nghe, v́ sao?
Người khác có cộng nghiệp với chúng ta, nhiều
người có cái tâm thanh tịnh b́nh đẳng, tai nạn
sẽ chẳng xảy ra, chẳng có! V́ thế, người
giác ngộ, sau khi giác ngộ chỉ có một sứ mạng
là giáo học, giúp đỡ kẻ chưa giác ngộ, chuyện
là như thế đấy. Trừ chuyện này ra, chẳng
có chuyện ǵ khác!
“Hà hữu nhất pháp, tại ngă tâm ngoại” (há có pháp nào ở ngoài tâm ta), tổ
sư đại đức thường nói: “Tâm ngoại vô pháp, pháp ngoại
vô tâm” (ngoài tâm chẳng có pháp, ngoài pháp chẳng có tâm), tâm
là tự tánh, không có một pháp nào ở ngoài tâm. “Bổn kinh sở thuyên, trực hiển
bổn tâm, toàn chương tự tánh. Đương
tướng tức đạo, vô phi Thật Tướng”
(Những điều được nói trong kinh này nhằm
chỉ thẳng cái tâm, phô bày trọn vẹn tự tánh. Từ
ngay nơi Tướng chính là Đạo, không ǵ chẳng phải
là Thật Tướng), mấy
câu này nói rất hay! Đức Phật nói kinh Vô Lượng
Thọ, nói ra bộ kinh này, các vị tổ sư đại
đức thuở xưa đă giới thiệu cho chúng ta
biết: Thuở đức Thế Tôn tại thế, Ngài đă
nhiều lần tuyên giảng bộ kinh này. Hết thảy
các kinh chỉ được đức Phật giảng một
lần, chẳng giảng lần thứ hai, chỉ ḿnh kinh
Vô Lượng Thọ được giảng rất nhiều
lần, những dấu vết hiện thời cho thấy
tối thiểu kinh này được giảng ba lần! Nhưng
kinh Vô Lượng Thọ từ đời Hán tới đời
Tống, trong tám trăm năm ấy, tổng cộng được
phiên dịch mười hai lần, tức là vốn có
mười hai bản dịch. Rất đáng tiếc trong mười
hai bản dịch ấy, có bảy bản bị thất
truyền. Trong mục lục của Đại Tạng
Kinh th́ có [ghi tựa đề những bản dịch ấy],
nhưng kinh không c̣n. Thất truyền bảy
loại, c̣n giữ được năm loại. Năm loại
ấy trong Đại Tạng Kinh đều có. Năm bản
ấy sai khác rất lớn; nếu là bản gốc chỉ
có một, chẳng thể nào có sai biệt lớn như vậy,
mà phải là như thường nói: “Đại đồng tiểu dị”. Quư vị nói
kinh Kim Cang có sáu bản dịch khác nhau, quư vị hăy
xem kỹ trong Đại Tạng Kinh, [sáu bản ấy] đại
đồng tiểu dị. Trong kinh Vô Lượng Thọ, phần
quan trọng nhất là bổn nguyện tức là lời
phát nguyện của A Di Đà Phật, hiện thời
trong năm bản ấy, có hai bản ghi bốn
mươi tám nguyện, có hai bản ghi hai mươi bốn
nguyện, bản dịch đời Tống là bản cuối
cùng, ghi ba mươi sáu nguyện, khi phiên dịch chắc
chắn không thể nào có sai lầm được! Do vậy,
cổ đại đức dựa vào điều này mà
phán đoán: Tối thiểu đức Phật cũng giảng
ba lần, tuy bảy bản thất truyền chẳng thấy,
nhưng điều này đă chứng tỏ [kinh này
được] tuyên giảng nhiều lần. Tuyên giảng
nhiều lần, nhất định có dụng ư, đó là pháp
môn này quá trọng yếu! Pháp môn này thật sự lợi
ích chúng sanh, cũng có thể nói là trong hết thảy các
kinh do đức Thế Tôn đă nói trong bốn mươi
chín năm, kinh này trọng yếu nhất. Do vậy, lăo
nhân gia tuyên giảng nhiều lần.
Chúng
ta phải hiểu “đương
tương tức đạo, vô phi Thật Tướng”
là cảnh giới ǵ? Sơ Trụ trong Viên Giáo, hay Sơ
Địa trong Biệt Giáo bèn nhập cảnh giới này.
Tướng là ǵ? Hiện tượng. Từ ngay nơi hiện
tượng (h́nh tướng được hiện) ấy,
chúng ta hiểu tự tánh, tướng do tự tánh biến.
Cổ nhân nói: “Dùng vàng làm đồ
vật, món nào cũng đều là vàng”, thấy các món
đồ liền biết chúng là vàng; vàng và đồ vật
chẳng thể tách rời. Tánh ở nơi đâu? Chúng ta
đọc ngữ lục của Thiền Tông, tuy đọc
không hiểu, nhưng thấy lăo ḥa thượng trắc
nghiệm học tṛ, coi tṛ khai ngộ là ngộ như thế
nào? Làm như thế nào? Thuận tay lấy một thứ
ǵ đó để so sánh, [ấn chứng]: “Chẳng sai! Tṛ
thật sự giác ngộ”. Chẳng lấy vật ǵ, duỗi
một ngón tay cũng được! Từ ngay nơi
tướng chính là đạo, thầy bèn ấn chứng
cho tṛ, người này thật sự khai ngộ, thật sự
khế nhập, đó là hiện tiền, chẳng rời khỏi
khoảnh khắc trong hiện tại, không ǵ chẳng phải
là Thật Tướng. Thật sự ngộ nhập, tâm
thái hoàn toàn khác biệt, chẳng có phiền năo! Thưa quư vị,
đoạn vô minh phiền năo th́ mới kiến tánh; chẳng
đoạn sẽ chẳng thể kiến tánh. Đoạn
vô minh phiền năo, quư vị liền biết phân biệt lẫn
chấp trước đều chẳng có. Từ vô minh sanh
ra phân biệt, từ phân biệt sanh ra chấp trước!
Khi đă đoạn cội rễ, toàn bộ cành lá chẳng
c̣n, sanh ra ǵ? Sanh ra trí huệ, trí huệ viên măn. Kẻ thật
sự kiến tánh, bất luận hỏi kẻ ấy vấn
đề ǵ, người ấy đều có thể nói rơ
ràng, rành rẽ. Người ấy chẳng học, mà chẳng
cần phải học, v́ sao? Chẳng ĺa tự tánh, trí huệ,
thần thông, đạo lực hiện tiền viên măn. Hễ
khai ngộ sẽ b́nh đẳng với thầy, thầy bảo
tṛ: “Nhữ như thị, ngă
diệc như thị” (ông như thế mà ta cũng
như thế), b́nh đẳng! Tánh Đức hoàn toàn
lưu lộ, chẳng có tăng giảm; v́ thế, kim Phật
giống như cổ Phật tái lai.
Thanh
Lương đại sư khi giảng tựa đề
kinh Tứ Thập Hoa Nghiêm đă nói một câu: Thích Ca Mâu Ni Phật
giảng kinh, thuyết pháp trong bốn
mươi chín năm, hết thảy các kinh mà Ngài đă nói
đều do cổ Phật đă nói, Phật Thích Ca chẳng
nói kinh nhiều hơn cổ Phật một chữ! Chúng ta
có thể tin tưởng [điều này] hay chăng? Trước
đức Phật Thích Ca, chẳng nghe nói tới một vị
nào, về sau, đức Phật dạy chúng ta: Ngài là vị
Phật thứ tư trong Hiền Kiếp. Nhưng thời
gian mỗi vị Phật xuất thế rất ngắn,
thời gian không có Phật rất dài, cớ sao [kinh do Phật
Thích Ca đă nói chính là kinh do] cổ Phật đă nói? Ngài kiến
tánh, cổ Phật cũng kiến tánh, kiến tánh bèn là Phật
Phật đạo đồng. Nếu là đạo đồng
th́ quư vị có thể nói những lời do bản thân
đức Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói chính là lời giảng
của cổ Phật; cũng có thể nói như thế
này: Những ǵ cổ Phật đă giảng chính là lời
giảng của Thích Ca Mâu Ni Phật, các Ngài là một, không
hai. Mê mới có một, hai; khi ngộ, chẳng c̣n nữa! Tướng
được biểu thị ấy rất hay, h́nh tướng
được biểu thị trở về Tánh Đức,
chẳng có chính ḿnh, giống như Khổng lăo phu tử đă
biểu thị cho chúng ta thấy, lẽ nào Ngài chẳng phải
là Phật, Bồ Tát! “Thuật
nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ” (thuật lại chứ
không trước tác, tin tưởng, chuộng cổ), Ngài
khai ngộ, cổ nhân cũng khai ngộ, những thứ của
cổ nhân chính là của Ngài, những thứ của Ngài
cũng là của cổ nhân. Ngài không nói tới chính ḿnh, Ngài
nói hết thảy những thứ của ta toàn là của cổ
nhân, phá trừ cái tâm ngạo mạn của chúng sanh, dụng
ư ấy quá tuyệt! Dụng ư ấy có công đức chân
thật, hiện thân thuyết pháp. Chúng sanh chưa buông những
phiền năo, tham, sân, si, mạn này xuống được,
đức Thế Tôn hiển thị thái độ ấy,
Khổng Tử giảng những điều này, nếu chúng
ta hiểu ư Ngài hăy nên cảm ơn, Ngài chỉ dạy chúng
ta khiến cho chúng ta triệt để buông tham, sân, si, mạn
xuống, chính ḿnh khiêm tốn, tôn trọng người khác,
tự tha bất nhị. Từ trong khiêm tốn mới hiển
lộ Tánh Đức; từ lễ tán, hiển lộ đức
hạnh và trí huệ chân thật trong tự tánh. Các Ngài hiện
thân thuyết pháp nhằm dạy chúng ta, chúng ta phải nên
thấu hiểu.
Tiếp
đó: “Như Di Đà Yếu
Giải vân, Thật Tướng vô nhị, diệc vô bất
nhị” (như sách Di Đà Yếu Giải nói: “Thật
Tướng không hai, mà cũng chẳng phải là không hai”),
vô nhị là nói theo Thể. “Không phải là chẳng hai” là
nói theo tác dụng. “Thị cố
cử thể tác y, tác chánh, tác pháp, tác báo, tác tự, tác tha, năi
chí năng thuyết, sở thuyết, năng độ, sở
độ, năng tín, sở tín, năng nguyện, sở nguyện,
năng tŕ, sở tŕ, năng sanh, sở sanh, năng tán, sở
tán, vô phi Thật Tướng chánh ấn chi sở ấn dă”
(V́ thế, dùng toàn bộ cái Thể để làm y báo, chánh
báo, Pháp Thân, Báo Thân, làm tự, làm tha, cho đến người
nói (Thích Ca Mâu Ni Phật), cái được nói (pháp
được nói), người hóa độ (Phật), kẻ
được hóa độ (chúng sanh), người tin
tưởng, pháp được tin tưởng, người
phát nguyện (hành nhân tu Tịnh Độ), điều
được phát nguyện (nguyện sanh về Tây
Phương Cực Lạc), người tŕ (hành nhân Tịnh
Độ), pháp được tŕ (danh hiệu A Di Đà Phật),
kẻ sanh về, cơi nước được sanh về,
người khen ngợi, cái được khen ngợi
(pháp môn Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc, A
Di Đà Phật v.v...), không ǵ chẳng được Thật
Tướng Chánh Ấn in vào). Hai câu đầu nói nhiều
ngần ấy! Thật Tướng vô nhị, mà cũng chẳng
phải là bất nhị; v́ thế, “cử thể” tức là toàn bộ Thể biến
hiện những ǵ? Biến hiện ra y báo hoặc chánh báo.
Đối với “y, chánh” ở
đây, chúng ta nhất định phải có khái niệm rất
rơ ràng! Chánh báo là ǵ? Chánh báo là chính ḿnh, y báo là hoàn cảnh sống
của chúng ta. Do vậy, chư vị nhất định
phải hiểu chánh báo; nếu quư vị nói chánh báo là hết
thảy mọi người, trật rồi! Chánh báo là chính
ḿnh, là một người, ngoài ta ra, đều là hoàn cảnh
sống, những người khác thuộc về hoàn cảnh
nhân sự của ta! Trong hoàn cảnh có hoàn cảnh nhân sự,
hoàn cảnh vật chất, hoàn cảnh tự nhiên, hoàn toàn
thuộc về hoàn cảnh. Hoàn cảnh đều là y báo, chánh
báo chỉ có một bản thân ta! Thân Thích Ca Mâu Ni Phật là
chánh báo của Ngài, thân ta là chánh báo của ta. Nếu nói theo
phía ta, Thích Ca Mâu Ni Phật là y báo của ta. Nói theo phía Thích
Ca Mâu Ni Phật, chúng ta là y báo của Ngài. Do vậy, phải
hiểu thật rơ quan niệm này: Chánh báo là một ḿnh ta. “Tác Pháp, tác Báo”: Pháp là Pháp Thân, Báo
là Báo Thân; “tác tự, tác tha”:
Bất luận như thế nào, đều là một tự
tánh, hoàn toàn do một tự tánh biến hiện. Giống
như ǵ? Giống như y báo và chánh báo hiện ra trong giấc
mộng. Điều này chẳng dễ hiểu, tự tánh
của ta biến hiện ra như thế nào? Cớ sao ta
có thể biến hiện người khác? Biến hiện
người nhiều dường ấy? Trong những
người ấy c̣n có oan gia đối đầu, c̣n có những
cư xử chẳng vui ḷng, v́ sao có chuyện này? Giống
như nằm mộng, quư vị thấy: Có lần nào nằm
mộng mà trong mộng chẳng có chính ḿnh? Quư vị có thể
t́m được lần nào nằm mộng mà không có chính
ḿnh? Không có chính ḿnh, sẽ không thể nằm mộng! Trong
mộng nhất định có chính ḿnh, quư vị mộng thấy
rất nhiều người, mộng thấy núi, sông, đại
địa, đó đều là y báo. Người b́nh phàm
chúng ta đều có kinh nghiệm, đấy là tâm ư thức
khởi tác dụng. Thế giới hiện tiền của
chúng ta do tự tánh khởi tác dụng, thật ra, trong mộng
vẫn chẳng ĺa khỏi tự tánh. Truy cứu căn
nguyên vẫn là tự tánh, hết thảy đều do tự
tánh hiện.
Tiếp
đó là nói tới “năng thuyết,
sở thuyết”. Người có thể nói pháp (năng
thuyết pháp) chính là Phật, sở thuyết pháp (pháp
được nói) là kinh điển. Có thể độ
chúng sanh là Phật, Bồ Tát; sở độ (kẻ
được độ) là hết thảy chúng sanh. Năng
tín, sở tín là chính ḿnh; năng nguyện, sở nguyện
cũng là chính ḿnh. Chính ḿnh phát nguyện là năng nguyện,
chúng ta mong muốn nguyện của ta được thỏa.
Những điều tiếp theo đều có Năng và Sở,
Năng và Sở là một, không hai, bất nhị là Thật
Tướng. Câu cuối cùng: “Vô
phi Thật Tướng chánh ấn chi sở ấn dă”
(không ǵ chẳng được chánh ấn Thật Tướng
in vào). Do vậy, nhất định phải chú tâm thấu
hiểu: Những câu đức Phật đă nói đều
là lời chân thật, đều nhằm giảng về Thật
Tướng của các pháp. Nếu chúng ta nhận biết,
khẳng định những điều ấy, tâm quư vị
sẽ định, trong tâm sẽ chẳng khởi tâm động
niệm, bèn khế nhập cảnh giới. Tuy “chẳng khởi
tâm, không động niệm” quá sâu, chúng ta chưa làm
được, nhưng đó là sự thật, vậy th́ chúng
ta hăy làm từ chỗ nông cạn, dễ dàng, tức là:
Đừng chấp trước, đừng phân biệt! Chấp
trước là Kiến Tư phiền năo, phân biệt là Trần
Sa phiền năo, chúng ta đổ công sức vào hai chỗ này;
thấy sắc, nghe tiếng chẳng chấp trước,
chẳng phân biệt. Quư vị tu ǵ? Chẳng chấp
trước là tu tâm thanh tịnh, chẳng phân biệt là tu tâm
b́nh đẳng, quư vị thật sự học. Lại
thưa cùng quư vị, đó gọi là thật sự niệm
Phật, chẳng phải là quư vị mong cầu sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới ư? Quư vị
niệm Phật có phân biệt, có chấp trước,
cũng chẳng sao, đới nghiệp văng sanh, sanh vào cơi
Phàm Thánh Đồng Cư của thế giới Cực Lạc.
Nếu quư vị chẳng chấp trước, niệm Phật
sẽ văng sanh vào cơi Phương Tiện Hữu Dư. Nếu
quư vị chẳng phân biệt, chúc mừng quư vị, quư vị
tới thế giới Cực Lạc sanh vào cơi Thật Báo
Trang Nghiêm. V́ sao? Quư vị b́nh đẳng, tâm b́nh đẳng
là cơi Thật Báo, tâm thanh tịnh là Tịnh Độ, Tịnh
Độ ấy là tứ thánh pháp giới, c̣n gọi là cơi
Phương Tiện Hữu Dư. Phân biệt và chấp
trước đều có, tâm quư vị vẫn chưa thanh
tịnh, vẫn có thể văng sanh. Pháp môn này quá thù thắng;
v́ thế, thích hợp khắp ba căn, thâu nhiếp toàn bộ
lợi căn lẫn độn căn, vạn người
tu, vạn người về.
Đoạn
phiền năo quả thật chẳng dễ dàng, đến
cơi Phàm Thánh Đồng Cư bằng cách nào? Đối với
cơi Phàm Thánh Đồng Cư, một câu Phật hiệu có
thể khống chế phân biệt, chấp trước,
giống như đá đè cỏ, [phân biệt, chấp
trước vẫn] có, chưa đoạn, nhưng chúng nó
chẳng khởi tác dụng là được rồi! Vào
lúc nào? Trong một niệm văng sanh, một niệm cuối
cùng là một câu Phật hiệu, trong tâm vẫn là một
câu Phật hiệu, không có ư niệm nào khác, quư vị sẽ
văng sanh. Trong một niệm cuối cùng, quư vị nghĩ tới
chuyện khác, sẽ trở lại lục đạo, không
thể văng sanh! Chân tướng sự thật này hết sức
trọng yếu! Khi quư vị chẳng hiểu rơ ràng, sẽ
thường là luống uổng một đời này, nhất
định phải hiểu rơ ràng! Niệm Phật trong lúc
b́nh thường là ǵ? Lúc thường ngày giống như luyện
binh, một niệm lâm chung là giao chiến. Do vậy, có rất
nhiều người b́nh thường niệm Phật rất
khá, niệm cả đời, nhưng khi lâm chung không xong,
v́ c̣n vướng mắc chưa buông xuống được,
tôi đă thấy rồi! Lúc tôi mới xuất gia, tại
chùa Lâm Tế thuộc Viên Sơn, Đài Bắc, có một lăo
cư sĩ lớn tuổi hơn tôi, học Phật lâu
hơn tôi. Trong chùa ấy có hội niệm Phật, cụ
làm Duy Na, hướng dẫn đại chúng niệm Phật,
tới cuối cùng, cụ chẳng văng sanh. Khi lâm chung, mọi
người trợ niệm cho cụ, cụ bảo mọi
người: “Các ngươi đừng niệm Phật tiễn
ta, ta không thích!”, lại luân hồi! Cho đến lúc ấy,
không thể làm chủ chính ḿnh, tập khí vô minh phiền năo
quá nặng, cũng là như chúng tôi hay nói là “không buông xuống
được!” V́ thế, buông xuống là phải buông xuống
trong hiện tại, chớ nên đợi đến ngày mai
hay năm sau, [nếu không], sẽ phiền phức lớn.
Chúng tôi b́nh thường rất tôn kính vị lăo cư
sĩ ấy, niệm Phật rất giỏi, quư vị thấy
cụ có thể làm Duy Na hướng dẫn đại
chúng, nhưng một chiêu cuối cùng cụ làm không
được, chẳng thật sự buông xuống. Do vậy,
“do thượng khả kiến
toàn kinh hốt luân tại nhất Thật Tướng trung”
(do những điều trên đây, có thể thấy toàn
bộ bản kinh gồm trọn trong Thật Tướng).
Chữ “hốt luân” (囫圇) có nghĩa là “hoàn toàn, hoàn mỹ, hoàn
chỉnh”. Toàn bộ từng câu từng chữ trong kinh
đều thuộc trong Thật Tướng, lời này là
thật. “Cố vân dĩ Thật
Tướng vi Thể Tánh dă” (cho nên nói lấy Thật
Tướng làm Thể Tánh [của kinh này]), nói những
điều này, chẳng có ǵ khác, khiến cho chúng ta tin
tưởng đức Phật nói bộ kinh này có căn cứ
lư luận, chẳng phải là tùy tiện nói; một mực
từ trong tự tánh tự nhiên lưu lộ, nói như vậy
cũng hợp lư!
Trong
đoạn cuối cùng, nêu kinh văn trong kinh này để
chứng minh: “Hựu bổn
kinh Đức Tuân Phổ Hiền phẩm vân, khai hóa, hiển
thị chân thật chi tế” (hơn nữa, phẩm
Đức Tuân Phổ Hiền trong kinh này có nói: “Khai hóa, hiển
thị Chân Thật Tế”). Chân Thật Tế là tự tánh;
khai thị, giáo hóa chúng sanh về Chân Thật Tế. “Đại Giáo Duyên Khởi phẩm
vân: Dục chửng quần manh, huệ dĩ chân thật
chi lợi” (Phẩm Đại Giáo Duyên Khởi nói: “Muốn
cứu vớt quần manh, ban cho cái lợi chân thật”).
Đức Phật nói kinh này, “quần
manh” (群萌) là hết
thảy chúng sanh, đức Phật giúp đỡ hết
thảy chúng sanh, giúp họ ĺa khổ được vui.
Ĺa khổ được vui nói đến chỗ rốt
ráo là: Nếu quư vị chẳng rời khỏi lục
đạo luân hồi, sẽ chẳng có cách nào thật sự
ĺa khổ. Tôi giúp quư vị sanh lên trời, sau khi quư vị hưởng
hết phước trời, vẫn phải đọa lạc;
đấy chẳng phải là rốt ráo. Giúp quư vị thoát
ly lục đạo luân hồi, quư vị chẳng thoát khỏi
mười pháp giới, sẽ chẳng có chân lạc. V́ thế,
đức Phật giúp đỡ chúng sanh, thật sự chỉ
có một mục tiêu: Giúp quư vị thoát ly mười pháp giới,
văng sanh Nhất Chân pháp giới, vấn đề này mới
thực sự được giải quyết. Thật Báo
Trang Nghiêm cũng là Nhất Chân pháp giới, cư dân nơi
ấy không chỉ chẳng có phân biệt, chấp trước,
mà ngay cả khởi tâm động niệm cũng đều
không có, đó là thế giới ǵ? Thế giới Phật.
Đến thế giới ấy, đều thật sự
thành Phật, chẳng khởi tâm, chẳng động niệm,
họ có thể cảm ứng đạo giao cùng hết thảy
chúng sanh trọn khắp pháp giới hư không giới. Cảm
ứng đạo giao th́ họ có khởi tâm động niệm
hay không? Không có. Chẳng khởi tâm động niệm, làm
sao có thể cảm ứng đạo giao? Chúng tôi lúc mới
học Phật có nỗi nghi hoặc này, nghi hoặc suốt
mấy chục năm. Chúng tôi đến thỉnh giáo các vị
lăo ḥa thượng, đại đức, họ cũng chẳng
giảng rơ ràng. Học tập vài chục năm mới từ
từ thông hiểu, đấy là do Tánh Đức trong tự
tánh chẳng thể nghĩ bàn. Tánh Đức là Thường
Tịch Quang, trong ấy cái ǵ cũng đều không có, chính
là như Huệ Năng đại sư đă nói năm
câu: “Nào ngờ tự tánh, vốn
tự trọn đủ”. Câu này nói rơ ràng, nhưng
trước kia chúng tôi không hiểu, nghe mà chẳng hiểu
ư nghĩa này: Trong tự tánh, thứ ǵ cũng trọn đủ,
chẳng có ǵ khiếm khuyết. Y báo và chánh báo trang nghiêm
trong mười pháp giới thảy đều ở trong ấy,
nhưng nó chẳng hiển lộ. Giống như màn h́nh
TV, chúng ta không mở máy th́ chỉ thấy một màn h́nh [trống
trơn], trong ấy thứ ǵ cũng chẳng có! Lúc ấy,
quư vị chẳng thể nói là nó không có; khi quư vị nhấn
nút, chẳng phải là [h́nh ảnh] bèn xuất hiện
ư? Nó ở trong cảnh giới ấy, cho nên thứ ǵ
cũng đều chẳng có.
Khi ứng
th́ chư Phật, Bồ Tát có thể hiện hay chăng?
Khi ứng th́ sẽ hiện. Hiện như thế nào? Cảm
ứng. Ai nhấn nút? Người cảm “đă nhấn
nút”, chư Phật, Bồ Tát bèn tự nhiên ứng, các Ngài
chẳng khởi tâm động niệm. Người cảm
cầu Phật, Bồ Tát gia hộ, cho nên một niệm
tâm ấy là Cảm, khi các Ngài ứng bèn vô tâm, giống
như tỷ dụ của chúng ta trong hiện tại. Nói
thật ra, chỉ có thể tỷ dụ phảng phất,
chẳng có cách nào tỷ dụ khít khao, không thể [kiếm
được tỷ dụ vừa khớp]. Giống
như làm thí nghiệm trên nước, nước là khoáng vật,
chúng ta đối với nước khởi
lên ư niệm: “Ta ưa thích ngươi, ta yêu mến
ngươi”, nước sẽ tiếp nhận, phản ứng
bằng cách kết tinh rất đẹp đẽ cho chúng
ta thấy. Chúng ta truyền cho nó một ư niệm khác: “Tao
chán ghét mày, tao hận mày”, nó bèn truyền tin tức trở
lại bằng cách kết tinh rất xấu xí cho quư vị
thấy. Nó có khởi tâm động niệm hay chăng? Nước
có khởi tâm động niệm hay chăng? Không có! Nó hiểu
bằng cách nào? Thuở xưa, đức Phật đă
dùng chuông trống làm tỷ dụ. Ngài nói quư vị gơ
chuông, cố ư gơ chuông, nó sẽ ngân vang. Quư vị gơ mạnh,
âm thanh sẽ to; gơ nhẹ, âm thanh nhỏ, chuông có khởi
tâm động niệm hay chăng? Nó có phân biệt, chấp
trước hay không? Tự tánh cảm ứng giống
như chuông trống, quả thật chẳng khởi tâm
động niệm, chẳng có phân biệt, chấp trước,
gơ mạnh kêu to, gơ nhẹ kêu bé, thật sự chẳng khởi
tâm động niệm. V́ sao? Do có đạo lư này: Do trong tự
tánh có kiến văn giác tri, nó là bất sanh, bất diệt.
Thọ, Tưởng, Hành, Thức có sanh diệt. Hễ mê th́
từ tự tánh biến thành A Lại Da, bèn có Thọ,
Tưởng, Hành, Thức. Trong tương lai, chuyển thức
thành trí, Thọ, Tưởng, Hành, Thức bèn chẳng có. Sắc,
Thọ, Tưởng, Hành, Thức đều không có, trở
về tự tánh. Điều này quả thật chẳng dễ
hiểu lắm, nhưng nó là chân tướng sự thật,
các tướng được hiện toàn là huyễn
tướng, ngàn vạn phần chớ nghĩ nó là thật.
Hễ tưởng là thật th́ quư vị đă trật rồi.
Coi nó là thật th́ sao? Coi các hiện tướng là thật
sẽ tạo nghiệp. Nghiệp có nhiễm nghiệp, có tịnh
nghiệp, có thiện nghiệp, có ác nghiệp, quả báo khác
biệt. Do vậy, đối với hết thảy chúng sanh,
đúng là đức Phật đă ban cho hết thảy chúng
sanh lợi ích chân thật; chân thật là ǵ? Khiến cho quư
vị minh tâm kiến tánh, trở về tự tánh.
Trong
phẩm Tích Công Lũy Đức có một câu như thế
này: “Trụ Chân Thật Huệ,
dũng mănh tinh tấn, nhất hướng chuyên chí trang
nghiêm diệu độ” (trụ Chân Thật Huệ,
dũng mănh tinh tấn, một mực chuyên dốc chí trang
nghiêm cơi nước mầu nhiệm). Ở đây nêu ra rất
hay, nói ra ba thứ chân thật: “Chân
thật chi tế, chân thật chi lợi, trụ chân thật
huệ”, nói đến ba thứ chân thật. Chỉ có
trụ trong Chân Thật Huệ th́ mới có thể dũng
mănh tinh tấn. Chân Thật Huệ là ǵ? Là Thích Ca Mâu Ni Phật
giảng bộ kinh Vô Lượng Thọ này. Kinh Vô Lượng
Thọ dạy quư vị phương pháp “nhất hướng chuyên niệm”, dạy chúng ta
phương pháp tu học để trở về tự tánh,
phương pháp đại triệt đại ngộ, phương
pháp thoát ly lục đạo, mười pháp giới, phương
pháp văng sanh cơi Thật Báo Trang Nghiêm, [tức là] tám chữ “phát Bồ Đề tâm, nhất
hướng chuyên niệm”. Người thật sự
làm, sẽ như Liên Tŕ đại sư đă nói: “Tam Tạng thập nhị bộ,
nhượng cấp tha nhân ngộ” (Tam Tạng mười
hai bộ, nhường cho người khác ngộ). Nay ta hiểu
rơ, hiểu ư nghĩa thật sự của đức Thế
Tôn, đó là chân thật nghĩa, ta chẳng c̣n kiếm lấy
những nỗi phiền phức nữa, đó là “trụ Chân Thật Huệ”.
Bao lâu sẽ có thể thành công? Tối đa là ba năm, thật
đấy, chẳng giả tí nào! Ba năm sẽ đắc
Niệm Phật tam-muội, có thể văng sanh. [Điều
này được] chứng tỏ trong Văng Sanh Truyện, Tịnh
Độ Thánh Hiền Lục, quư vị hăy đọc,
trong ấy, gần như quá nửa là người ta [niệm
Phật] ba năm bèn văng sanh. Do vậy, trong quá khứ có một
vị pháp sư hỏi tôi, vị này cũng đă mất,
tức là pháp sư Đức Dung, h́nh như Sư đă
qua đời chẳng ít năm, tuổi tác cũng xấp
xỉ tôi. Sư từng hỏi tôi một câu. Sư nói: “Có
đúng là những người được chép trong Văng Sanh
Truyện thọ mạng chỉ c̣n vừa đúng ba
năm, sau ba năm, thọ mạng đă hết nên họ
phải ra đi?” Tôi nghe hỏi như vậy, không cho cách
nghĩ ấy là đúng, đâu có chuyện phù hợp khít
khao như vậy? Hai, ba người th́ có lẽ c̣n có thể,
chứ đông như thế, mấy trăm người,
làm sao có thể có chuyện như vậy được?
Chuyện ấy chẳng thể xảy ra. Cớ sao họ
niệm ba năm bèn văng sanh? Khẳng định là tṛn ba
năm, người ấy đă tu được công phu
thành phiến, bèn từ bỏ tuổi thọ. Công phu thành
phiến tốt đẹp, chúng ta có thể chia công phu thành
phiến thành ba bậc, chín phẩm. Thượng Phẩm văng
sanh ra đi tự tại, muốn đi bèn đi, ta có thọ
mạng nhưng chẳng cần tới, ta sang thế giới
Cực Lạc, thân cận A Di Đà Phật, đến bên
kia để tu hành, thật sự đi được
Mấy
năm trước, cư sĩ Hoàng Trung Xương ở
Thâm Quyến, ba mươi mấy tuổi, c̣n rất trẻ,
đă làm thí nghiệm: Bế quan niệm Phật ba năm,
xem thử có thể văng sanh hay chăng? Ông ta niệm hai
năm mười tháng, c̣n thiếu hai tháng nữa mới
viên măn mà đă đi, thật sự chẳng giả tí nào! Chẳng
cần [thọ mạng] nữa, thế gian này, quá khổ.
Độ chúng sanh như thế nào? Cuộc biểu diễn
ấy của ông ta nhằm độ chúng sanh, chẳng dạy
bằng lời lẽ (ngôn giáo), mà dùng thân giáo, nêu
gương cho quư vị thấy. Trong Tam Chuyển Pháp Luân,
cách này gọi là Thị Chuyển, [tức là] thị hiện
tấm gương cho quư vị nh́n vào, thật sự, chẳng
phải là giả. Những trường hợp như vậy
quá nhiều. Đấy là “trụ
Chân Thật Huệ”, thâm nhập một môn. Đạt
được công phu này, tam-muội là Định, chắc
chắn Định sanh trí huệ, trí huệ sanh từ tâm thanh
tịnh, tâm chẳng thanh tịnh sẽ sanh phiền năo, tâm
thanh tịnh sanh trí huệ. Trong Tịnh Tông, đạt
được công phu như thế, một là văng sanh Cực
Lạc thế giới, hai là ở lại thế giới
này ḥng độ chúng sanh. Ở lại thế giới này
th́ cũng có thể nói là người ấy có nhiệm vụ:
Mang thêm mấy người nữa về thế giới Cực
Lạc. Chính ḿnh văng sanh th́ lúc nào cũng đều có thể
đi, đến đi tự do, muốn đi lúc nào bèn
đi lúc ấy, chẳng vướng mắc tí nào! Người
ấy trụ trong thế gian này mới thật sự là chịu
khổ thay cho chúng sanh. Nếu người ấy chẳng
trụ trong thế giới này, sẽ chẳng thể giúp
đỡ người khác. Người ấy ở trong thế
giới này, đúng là bốn đức đă được
nói trong sách Hoàn Nguyên Quán: “Tùy
duyên diệu dụng, oai nghi hữu tắc, nhu ḥa chất
trực, đại chúng sanh khổ” (tùy duyên diệu dụng,
oai nghi có chừng mực, mềm mỏng, chân thật, thẳng
thắn, chịu khổ thay cho chúng sanh). Người ấy
làm những điều này, chịu khổ thay cho chúng sanh. Có
phải là thật sự chịu khổ thay cho chúng sanh hay
chăng? Chẳng phải! Người ấy thị hiện
tướng trạng ấy. V́ sao? Tâm người ấy thanh
tịnh, chẳng có phân biệt, chấp trước, làm
sao có khổ được! Do vậy, trong tâm người
ấy rất tự tại, giống như Thích Ca Mâu Ni Phật,
đều là thị hiện. Thích Ca Mâu Ni Phật tam y nhất
bát, đêm ngủ dưới cội cây, Ngài sung sướng
lắm! Nhưng chúng ta thấy rất khổ, v́ sao? Chúng ta
chịu không nổi. Phật có thể chịu được,
Ngài là thân kim cang bất hoại, cho nên ở trong ấy,
Ngài có niềm vui, pháp hỷ sung măn, thường sanh tâm hoan
hỷ. Hôm nay lại hết thời gian rồi, ngày mai chúng
ta sẽ học tập tiếp, hôm nay giảng tới đây.
Tập 22
Chư vị pháp
sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống.
Tôi vừa mới xem một tờ truyền đơn, nghe
nói tờ truyền đơn này đă lưu hành trên Internet
khá lâu! Tôi đọc một đoạn cho mọi người
nghe nhé: “[Tờ truyền
đơn này] đến từ lăo pháp sư Tịnh Không.
Sau khi tai nạn bộc phát tại Tứ Xuyên, Miến
Điện, gần đây tai nạn lại bộc phát càng
nghiêm trọng hơn. Cả thế giới bị ôn dịch,
có thể hơn trăm vạn người bị chết,
so với tai nạn tại Tứ Xuyên và Miến Điện
trong thời gần đây càng đáng sợ hơn. Hiện
thời đă có mấy quốc gia như Đại Hàn, Ấn
Độ đă bắt đầu [xảy ra tai nạn]”.
Tôi chẳng biết chuyện này, mà cũng chẳng biết
ai đă viết [như vậy], chuyện này tôi không hiểu.
Đoạn tiếp theo viết: “Pháp
sư Tịnh Không kêu gọi các đồng tu trên thế giới
bắt đầu từ tám giờ rưỡi mỗi tối,
niệm tụng thánh hiệu Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát một
ngàn câu suốt một tuần để hồi hướng
cho chúng sanh trên cả thế giới tiêu tai miễn nạn,
ĺa khổ được vui, quốc thái dân an, mưa ḥa,
gió thuận. Xin quư vị sau khi nhận được tin tức
này bèn báo cho càng nhiều nhân sĩ thiện tâm biết, công
đức vô lượng”. Câu sau cùng là do người viết
truyền đơn thêm vào. Tôi kêu gọi đồng học
Tịnh Tông trên toàn cầu niệm Quán Thế Âm Bồ Tát ḥng
tiêu tai miễn nạn cho thế giới, tôi đă nói điều
này, đoạn ấy tôi đă nói, nhưng câu trước
và câu cuối cùng, tôi chẳng biết đến. Những
ǵ tôi nói đă được đài truyền h́nh vệ
tinh Hoa Tạng phát sóng. Mặt sau tờ truyền
đơn có toa thuốc của Quán Thế Âm Bồ Tát,
đối với toa thuốc ấy, tôi không biết Trung
Y, có thể nhờ các thầy thuốc Bắc xét coi có hiệu
quả hay không? Chuyện này thận trọng một chút sẽ
tốt hơn. Tai nạn rất nhiều, nhất là trong thời
gian gần đây nhất, h́nh như hôm nay tại Đài
Loan lại bị động đất, c̣n có núi lở. Nhiều
năm qua, tôi thường khuyên lơn các đồng tu phải
nghiêm túc học mười sáu chữ: “Phóng hạ tự tư tự lợi, phóng hạ
danh văn, lợi dưỡng, phóng hạ đối
ngũ dục lục trần hưởng thụ, phóng hạ
tham, sân, si, mạn” (Buông tự tư tự lợi xuống,
buông tiếng tăm, lợi dưỡng xuống, buông
hưởng thụ ngũ dục lục trần xuống,
buông tham, sân, si, mạn xuống). Tâm thái của chúng ta
đoan chánh sẽ khiến cho thân tâm khỏe mạnh, mang lại
hạnh phúc cho gia đ́nh, mang lại thuận lợi trong sự
nghiệp, mang lại an định ḥa b́nh cho xă hội, đưa
đến sự đối xử ḥa thuận trên thế
giới, tôi thường nói những điều này. Tai nạn
chẳng đáng sợ, chúng ta đoan chánh tâm hạnh sẽ
có thể hóa giải tai nạn, trong kinh, đức Phật
thường dạy chúng ta: “Tướng
do tâm sanh, cảnh chuyển theo tâm”. Trong giáo pháp Đại
Thừa nói rất nhiều, đối với những lư
luận ấy, chúng ta có mức độ khá hiểu biết.
Do vậy, chúng ta công nhận hai câu nói ấy của đức
Phật, chỉ cần sửa đổi tâm thái của
chúng ta cho đúng, sẽ có thể hóa giải tai nạn. V́
thế, rất nhiều thứ được lưu truyền
mượn danh nghĩa của tôi, tôi chẳng biết rơ lắm!
Trong quá khứ, cục trưởng cục Tôn Giáo Quốc
Gia là ông Diệp đă từng cho tôi biết. Ông ta đến
Hương Cảng phỏng vấn. Trong thời gian phỏng
vấn, có một hôm mời tôi dùng bữa sáng tại khách sạn,
ông ta bảo: “Trong nước có những kẻ giả mạo
danh nghĩa pháp sư để làm những chuyện bất
thiện, pháp sư có biết những chuyện đó hay
không?” Tôi nói tôi thật sự không biết. Ông ta bảo:
“Chuyện này sẽ do quốc gia xử lư”. Tôi nói tôi rất
cảm ơn. Do vậy, ở đây, tôi nói kèm thêm chuyện
này cùng mọi người. Tờ truyền đơn này
không có khuyết điểm ǵ to lớn, toàn là khuyến thiện,
nhưng lời khuyến thiện và toa thuốc của Quán
Âm Bồ Tát chúng tôi chẳng biết tới, toa thuốc
Quán Âm Bồ Tát do đâu mà có? Tôi hoàn toàn không biết. Quư vị
liễu giải là được rồi, cám ơn mọi
người.
Nay
chúng ta bắt đầu xem kinh, xin coi Vô Lượng Thọ
Kinh Giải trang hai mươi, ḍng thứ hai từ dưới
đếm lên, coi từ giữa câu: “Tích Công Lũy Đức phẩm vân: Trụ Chân Thật
Huệ, dũng mănh tinh tấn, nhất hướng chuyên chí
trang nghiêm diệu độ” (Phẩm Tích Công Lũy
Đức có nói: “Trụ Chân Thật Huệ, dũng mănh
tinh tấn, một mực chuyên dốc chí trang nghiêm cơi
nước mầu nhiệm”). Câu đầu tiên này hết
sức trọng yếu! Quư vị thấy chư Phật Như
Lai chỉ dạy chúng ta trí huệ chân thật, điều
này quan trọng lắm! Trí huệ chân thật ở đâu?
Trí huệ chân thật chẳng ở bên ngoài, mà sẵn có
trong tự tánh của chúng ta, lại c̣n viên măn, hết thảy
chúng sanh đều có. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă
nói rơ ràng: “Hết thảy chúng sanh
đều có trí huệ và đức tướng của Như
Lai”. Trong quá khứ, đối với câu nói này, tŕnh
độ hiểu biết của chúng tôi như sau: Nói “hết thảy chúng sanh” th́ đại
khái là người, tối đa là động vật, chúng
tôi hiểu như vậy. Hiện thời, chúng tôi hiểu
sâu đậm hơn, v́ “chúng sanh” được nói trong Phật
giáo vốn có nghĩa là “các hiện tượng do các duyên
ḥa hợp mà sanh khởi” th́ gọi là “chúng sanh”. Định
nghĩa này bao gồm tất cả các hiện tượng,
có hiện tượng nào chẳng do các duyên ḥa hợp? Kinh
thường nói động vật là Tứ Đại,
Ngũ Uẩn, đó là các duyên ḥa hợp. Nay chúng ta đă biết:
Thực vật cũng do các duyên ḥa hợp, bộ phận
vật chất của thực vật là Sắc pháp, hiện
thời thực vật cũng có Thọ, Tưởng, Hành,
Thức.
Mười
năm gần đây, chúng tôi ở Úc. Tại Úc, chúng tôi có một
vườn rau rất lớn, trong vườn rau trồng rất
nhiều loại rau, đại khái có từ mười mấy
tới hai mươi loại, do chính chúng tôi chăm bón.
Chúng tôi chăm bón những thứ rau ấy, c̣n có cây ăn
quả, trong bốn năm qua, chúng tôi c̣n trồng trúc, cho
nên năm nay, thu được hoạch măng trúc rất
ngon, chúng tôi cũng chẳng thiếu thức ăn. Chúng tôi
chuyện tṛ với những loài thực vật ấy, nhận
thấy chúng nó có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Chuyện
tṛ rất tốt đẹp, hỗ trợ hợp tác.
Đối với khoáng vật, chúng ta chẳng có cách nào thí
nghiệm! Tiến sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật
Bản đă làm thí nghiệm trên nước, phát hiện
nước có “kiến, văn, giác, tri”, nó có thể thấy,
nghe, hiểu được ư nghĩ của con người.
Mấy bữa gần đây, tôi đă xem một đĩa
DVD [do một đồng tu] hạ tải (download) từ Internet,
đặc biệt đưa cho tôi xem. Khoa học gia Mỹ
đă phát hiện nước có kư ức, kư ức là thức.
Nói cách khác, khoáng vật có Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Phạm vi ấy to lắm! Đức Phật nói “thân Ngũ
Uẩn” bao gồm tất cả các hiện tượng
trong trọn khắp pháp giới hư không giới, bất
luận hiện tượng tinh thần hay hiện tượng
vật chất. Tinh thần và vật chất vĩnh viễn
chẳng tách rời, trong phần trước, tôi đă từng
thưa bày cùng quư vị điều này. Trong vật chất
có Thọ, Tưởng, Hành, Thức; Thọ, Tưởng,
Hành, Thức là tinh thần, trên phương diện tinh thần
có Vô Biểu Sắc, nó chẳng phải là không có sắc. Chúng
ta nằm mộng, trong mộng có sắc; chúng ta tưởng
tượng, trong tưởng tượng có sắc pháp. Do
vậy, nói thật ra, Vô Sắc Giới Thiên vẫn có sắc,
sắc của họ là Vô Biểu Sắc, người b́nh
thường chúng ta chẳng thấy, nhưng Phật, Bồ
Tát có thể trông thấy, A La Hán có thể trông thấy, những
người có công phu đều có thể trông thấy. Do vậy,
“trụ Chân Thật Huệ”
có ư nghĩa rất rộng. Hết thảy chúng sanh đều
có trí huệ và đức tướng của Như Lai, một
hạt bụi, một giọt nước, hoặc như
kinh nói một sợi lông, một vi trần, đều trọn
đủ trí huệ và đức tướng của
Như Lai. Chúng ta hiểu như vậy th́ mới là chân thật
nghĩa của Như Lai, chẳng giới hạn trong
động vật, động vật có phạm vi quá nhỏ.
“Trụ” (住) là an trụ. Khởi tâm động
niệm, ngôn ngữ, tạo tác, tự hành, hóa tha; tự
hành là trong cuộc sống hằng ngày của chính chúng ta,
hóa tha là ảnh hưởng hết thảy chúng sanh chung
quanh; đó là Trụ, toàn là trí huệ chân thật.
Đương nhiên người b́nh phàm chúng ta chẳng làm
được câu này, v́ sao? Chúng ta mê tự tánh, tức là
mê Chân Thật Huệ. Thật ra, Chân Thật Huệ vẫn
khởi tác dụng, khi mê bèn khởi tác dụng ǵ? Khởi
phiền năo. Do vậy, phải hiểu, kinh dạy “phiền năo tức Bồ Đề”,
phiền năo và Bồ Đề là cùng một chuyện. Hễ
giác ngộ, phiền năo liền biến thành trí huệ; mê th́
trí huệ biến thành phiền năo. Quư vị thấy: Do chúng
ta mê hay ngộ bèn có thể biến hóa những thứ
được sanh bởi tự tánh! Giác ngộ sẽ sanh
ra thứ tốt nhất, trí huệ viên măn. Nếu mê th́ trí
huệ biến thành vô lượng vô biên phiền năo. Do vậy
có thể biết: Phật, Bồ Tát trụ Chân Thật Huệ,
hiện thân thuyết pháp dạy bảo chúng ta, chúng ta và các
Ngài có cùng một tự tánh, chẳng hai, chẳng khác. Các
Ngài trụ Chân Thật Huệ như thế nào? Buông khởi
tâm động niệm, phân biệt, chấp trước xuống,
trí huệ chân thật bèn hiện tiền. So với các Ngài,
chúng ta khởi tâm động niệm, có phân biệt, chấp
trước, những thứ này được gọi là “phiền
năo”. Trong pháp Đại Thừa, khởi tâm động niệm
gọi là Vô Minh phiền năo, phân biệt là Trần Sa phiền
năo, chấp trước là Kiến Tư phiền năo. “Kiến” là kiến giải, “Tư” là tư tưởng.
[Kiến Tư phiền năo] là trong kiến giải và tư
tưởng của quư vị có kèm theo các phiền năo. Phiền
năo vô lượng vô biên, nhằm nói cho thuận tiện,
đức Phật đă chia phiền năo thành ba loại lớn.
Buông những thứ ấy xuống, trí huệ bèn hiện
tiền. Quư vị thấy: Buông phiền năo xuống, phiền
năo bèn khôi phục nguyên trạng, nguyên trạng (t́nh trạng
vốn có) của nó là trí huệ. Phiền năo là ǵ? Phiền
năo là t́nh trạng [trí huệ đang] bị bệnh (ư nói: Bị
biến chất, bị ô nhiễm bởi phân biệt, vọng
tưởng). Chúng ta khởi lên ư niệm, trật rồi!
Trong tự tánh chẳng có khởi tâm động niệm,
không có phân biệt, chấp trước; do vậy, những
tướng được hiển lộ đúng mực [của
tự tánh] sẽ là trí huệ, đức năng, tướng
hảo, đó là b́nh thường. Trong kinh giáo, đức Phật
nói tới Nhất Chân pháp giới, hoặc cơi Thật Báo của
chư Phật Như Lai, đó là b́nh thường. Mười
pháp giới th́ sao? Không b́nh thường. Mười pháp giới
từ Phật cho đến địa ngục, mỗi tầng
sau nghiêm trọng hơn tầng trước, nghiêm trọng
nhất không chi hơn địa ngục, tầng này nghiêm
trọng nhất, mê sâu nhất. Trong địa ngục,
cũng có rất nhiều chủng loại, cũng có [mê hoặc]
sâu hay cạn khác nhau. Chỗ mê sâu nhất gọi là A Tỳ
địa ngục, mê nặng nề! Do vậy, đức
Phật hóa độ chúng sanh, nguyên tắc là ǵ? Giúp đỡ
chúng sanh phá mê khai ngộ. Họ chẳng mê hoặc, sẽ
giác ngộ, bệnh thái (t́nh trạng bệnh tật) hoàn
toàn khôi phục b́nh thường, sẽ được an
vui. Do vậy, đức Phật giáo hóa chúng sanh, giúp đỡ
chúng sanh, hoàn toàn dùng giáo dục, chúng ta phải hiểu
điều này.
Do vậy,
chúng tôi thường nghĩ, mà cũng thường nhắc
nhở mọi người: Tổ tiên chúng ta, cổ thánh
tiên hiền, thật sự đều là Phật, Bồ Tát
tái lai. Những ǵ họ dạy bảo chúng ta chẳng khác
ǵ kinh Phật. Tổ tiên dạy chúng ta: “Kiến quốc, quân dân, giáo học vi tiên” (kiến
thiết đất nước, cai trị dân chúng, giáo học
làm đầu), giáo học! Quư vị chỉ cần thực
hiện tốt giáo học, vấn đề ǵ cũng
đều được giải quyết, hăy thực hiện
tốt việc giáo dục. Giáo dục là dạy những ǵ?
Dạy luân lư, dạy đạo đức, dạy nhân quả,
đấy là giáo dục phổ thông, cần phải
được học tập phổ biến. C̣n có một
số ít người tiến cao hơn nữa, đó là giáo
dục khoa học, giáo dục triết học, những
điều ấy nhằm giúp đỡ quư vị nâng cao
linh tánh, nhưng cũng đều xếp giáo dục vào vị
trí bậc nhất. Phật pháp cũng giống như thế.
Bậc đại thánh đại hiền vĩ đại
nhất trong thế gian và xuất thế gian, nói theo Phật
pháp, toàn là Phật, Bồ Tát; nói cách khác, đều là những
người tiến hành công tác giáo dục. Tại Trung Quốc,
cổ thánh tiên hiền cũng có vị tham gia chính trường,
như Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang nắm quyền chính trị
từ ngôi vua, nhưng cũng có vị chuyên môn tiến hành
giáo dục như Khổng Tử, Mạnh Tử, cũng là
suốt đời dạy học. Khổng Tử tuy chu du các
nước, mong được một chức quan nhỏ nhoi
để thực hiện hoài băo của Ngài, nhưng trong
lúc chu du các nước, học tṛ theo Ngài, rất nhiều
người chẳng rời thầy, mỗi ngày đều
học tập, giống như Tăng đoàn của Thích Ca Mâu Ni Phật, bất quá tăng
đoàn của Khổng Tử chẳng có quy mô to như Thích
Ca Mâu Ni Phật, nhưng đều là tiến hành công
tác giáo dục. Khổng Tử chu du các nước, cảm
thấy tuổi tác đă cao, tuy gặp rất nhiều chư
hầu, chẳng ai muốn dùng Ngài, tới lúc ấy, mới
bỏ cách nghĩ ấy, trở về nhà, chuyên môn tiến
hành công tác giáo học. Khi đó, lăo nhân gia đă sáu
mươi tám tuổi, mất năm bảy mươi ba
tuổi, cho nên toàn bộ tinh thần chuyên chú vào dạy học
chỉ là năm năm. Thích Ca Mâu Ni Phật toàn tâm toàn ư dạy
học bốn mươi chín năm, trong các vị cổ
thánh tiên hiền, thời gian dạy học dài nhất là Thích
Ca Mâu Ni Phật, đấy là dũng mănh tinh tấn.
Chúng
ta cầu trí huệ, học Phật là học trí huệ, là
đào bới, khơi lên trí huệ trong tự tánh, giống
như khai quật kho báu từ trong hầm mỏ. “Khai quật”
là buông xuống. Buông xuống những chấp trước
đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất
thế gian, trí huệ sẽ bắt đầu hiện bày,
bắt đầu trào ra ngoài, [tuy vậy, trí huệ ấy]
chưa nhiều lắm, trong Phật pháp gọi là A La Hán. A
La Hán đắc Chánh Giác, Chánh Giác là trí huệ. Tiếp tục
buông xuống không ngừng. Tôi thưa với các đồng
học, buông tự tư tự lợi xuống, buông tiếng
tăm, lợi dưỡng xuống, buông tham, sân, si, mạn
xuống, buông ngũ dục lục trần xuống, sẽ
đạt đến giai đoạn nào? Thưa quư vị,
sẽ đạt tới cửa ngơ của Phật giáo,
nhưng chưa tiến vào. Chư vị phải biết:
Chớ nên tưởng rằng ta buông xuống nhiều ngần
ấy, bèn nghĩ chính ḿnh ghê gớm lắm, mới đến
ngoài cửa mà thôi, chưa vào cửa! Bước vào cửa,
cần phải dùng tiêu chuẩn của Phật. Do vậy,
tôi nói tới phương tiện nhằm giúp đỡ quư
vị tiến đến trước cửa, sau đấy,
chính quư vị lại phải bước vào. Thật sự
tiến vào cửa, sẽ là như trong kinh thường
nói: Đối với Kiến Tư phiền năo, phải
đoạn sạch Kiến Hoặc, quư vị có rất nhiều
cách nh́n sai trái phải bỏ đi. Cách nh́n sai lầm rất
nhiều, đức Phật đă quy nạp thành năm loại.
Loại thứ nhất là Thân Kiến, hăy buông xuống, biết
thân chẳng phải là chính ḿnh, thân là ǵ? Thân là cái mà ta có, chẳng
phải là ta, phải xoay chuyển quan niệm sai lầm này.
Y phục chẳng phải là ta, mà là cái thuộc về ta,
thân thể giống như quần áo, là cái ta vốn có, chẳng
phải là ta. Do vậy, cái thân dùng vài chục năm đă
trục trặc, lại thay một thân khác, giống như
quần áo mặc dơ, quư vị rất vui vẻ cởi
ra, đổi lấy một bộ mới. Sau khi đột
phá cái ải này, quư vị sẽ chẳng sợ hăi sanh tử,
thay một bộ quần áo mới mà thôi! Chẳng sợ
hăi, thưa quư vị, y phục càng thay càng đẹp đẽ
hơn, càng thay càng tốt hơn. Tham sống sợ chết
th́ càng thay càng tệ hơn! Phật có ân đức rất
lớn đối với chúng ta. Chúng ta liễu giải
chân tướng, thân chẳng phải là chính ḿnh, chớ nên
v́ thân này khởi tham, sân, si, mạn; [nếu khởi lên] là
trật rồi, nó chẳng phải là chính ḿnh.
Thứ
hai là phải buông bỏ đối lập, danh từ Phật
giáo [gọi đối lập] là Biên Kiến, nhị biên
(hai bên, tức có không, đúng sai, thiện ác v.v...), nay chúng
ta nói là “đối lập”,
mọi người dễ hiểu. Đối lập là căn
nguyên của tất cả phiền năo tội nghiệt, v́ trong
vũ trụ, trong Pháp Tánh chẳng có đối lập, t́m
không ra đối lập! Hết thảy chúng sanh trong toàn
thể vũ trụ và chính ḿnh là nhất thể, nhất
thể mà quư vị chia thành đối lập th́ trật mất
rồi! Chẳng thể phân chia. V́ thế, kinh Kim Cang vừa
mở đầu liền dạy: “Vô ngă tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh
tướng, vô thọ giả tướng”, bốn câu
này nói rất hay, ĺa tứ tướng, nó là một chỉnh
thể (entirety), nhất thể! Làm sao quư vị có thể phân
chia được? Đâu có đạo lư ấy! Do vậy,
chúng ta phải học chẳng đối lập với hết
thảy mọi người, họ đối lập với
ta, nhưng ta và họ chẳng đối lập, v́ sao? Họ
mê, chưa giác ngộ. Nay ta đă hiểu rơ, giác ngộ; nếu
ta đối lập với các vị, chẳng phải là lại
mê hay sao? Do vậy, không có đối lập. Chẳng đối
lập với người khác, chẳng đối lập
với sự, mà cũng chẳng đối lập với
hết thảy vạn vật, đối với núi, sông,
đại địa cũng không đối lập, v́ sao?
Nhất thể, chúng là y báo của ta, đều do tự tánh
biến hiện, giống như trong Hoàn Nguyên Quán đă giảng:
Từ nhất thể khởi nhị dụng. Tuy khởi
nhị dụng, nhưng nhị dụng vẫn là nhất
thể, nhị mà bất nhị. V́ thế, Tánh và Tướng
như nhau, Tánh và Tướng bất nhị, cách nh́n này là chính
xác.
Điều
buông xuống thứ ba là Thành Kiến. Thành Kiến là ǵ? Tự
cho ḿnh là đúng. Người Hoa thường nói: “Kẻ
nào đó có thành kiến rất sâu”. Thành Kiến là ǵ? Thành Kiến
là chấp trước. Thành Kiến có hai loại: Một
là Thành Kiến nơi nhân, hai là Thành Kiến nơi quả
trong lục đạo. Chúng sanh trong lục đạo
đều rất chấp trước, đây là loại chấp
trước nghiêm trọng, tự cho ḿnh là đúng, đấy
là sai lầm. V́ sao sai lầm? Trong kinh, đức Phật
thường nói: “Phàm những
ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”; nếu
đă hiểu hết thảy hiện tượng đều
là hư vọng, mà cũng chẳng chân thật, sẽ chẳng
có thành kiến. Không có thành kiến mới có thể tùy
duyên, tùy hỷ công đức. “Hằng
thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức”. Phật, Bồ
Tát chẳng có thành kiến, c̣n hết thảy chúng sanh, quư vị
nói như thế nào mới là tốt theo kiểu nào đi nữa,
Phật cũng đều có thể tùy thuận, chẳng
ép buộc quư vị một tí nào! Quư vị làm lành, sanh lên thiên
đường; quư vị tạo ác bèn đọa địa
ngục, Phật biết rất rơ ràng, nhưng Phật chẳng
ngăn trở quư vị, v́ sao? Quư vị thích làm như vậy
th́ c̣n cách nào nữa? Tới khi nào quư vị thật sự giác
ngộ, hướng về Phật thỉnh giáo, Ngài sẽ
dạy quư vị. Quư vị chẳng hướng về Ngài
thỉnh giáo, Ngài chẳng dạy quư vị, v́ sao? Dạy
th́ quư vị chẳng chịu tiếp nhận, tạo tội
nghiệp. Đó là trí huệ chân thật. Trí huệ chân thật
hiển thị, đó là đức năng chân thật,
tướng hảo chân thật sẽ tự nhiên hiển
thị.
“Dũng mănh tinh tấn”, đoạn
kinh văn này nhằm miêu tả A Di Đà Phật khi
đang tu nhân, chúng ta phải học tập, học theo A Di
Đà Phật. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta khởi
tâm động niệm có phải là trí huệ hay chăng? Là
trí huệ hay là t́nh thức? T́nh thức là phiền năo, “t́nh”
là Mạt Na thức, “thức” là A Lại Da. Trong kinh Phật
đă giảng rất rơ ràng, t́nh là ǵ? T́nh là Ngă Kiến, ngă
ái, ngă si, ngă mạn, đấy là t́nh. Trong kinh Đại Thừa
thường nói là “tham, sân, si, ngă”, “ngă” ở sau tham, sân, si,
c̣n có “mạn”. Tham, sân, si mạn là bốn đại phiền
năo thường nương theo [A Lại Da], đó là “t́nh
chấp” (chấp trước nơi t́nh thức). Do vậy,
nếu chẳng dùng trí huệ, sẽ biến thành t́nh chấp,
chắc chắn sẽ là như vậy. Dũng mănh tinh tấn,
muốn t́m lại tự tánh, muốn t́m lại trí huệ.
Một mực như vậy, quư vị nh́n theo một
phương hướng, chuyên môn trang nghiêm cơi nước
nhiệm mầu, cơi nước nhiệm mầu chính là thế
giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc do nguyện
lực của A Di Đà Phật biến hiện, thật sự
là hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng. Thế
giới Cực Lạc từ tâm tưởng của A Di
Đà Phật mà xuất hiện. Chúng ta có tưởng ra một
thế giới hay chăng? Cũng tưởng ra, quả
địa cầu là một thế giới do tâm tưởng
của chúng ta sanh ra. Nếu tâm chúng ta chẳng tưởng,
sẽ chẳng có địa cầu, thật đấy, chẳng
giả đâu!
Kế
đó là lời giải thích, Hoàng lăo cư sĩ giải
thích: “Chân thật chi tế giả”
(Chân Thật Tế là...), Chân Thật Tế là ǵ? “Chân Như Thật Tướng chi
bổn tế dă” (căn cội của Chân Như Thật
Tướng). Chân là Chân Như, Thật là Thật Tướng,
Tế là bổn tế (cội rễ, giới hạn),
cũng có nghĩa là Chân Như Thật Tướng, “tế” (際) là giới hạn, là “biên tế” (ranh giới), giới
hạn ấy có hay chăng? Chẳng có, không có ngằn mé!
Không có ǵ to lớn có thể vượt ra ngoài được,
trong giáo học của Phật, điều đó được
gọi là Chân Thật Tế. “Thử
tức bổn kinh chi sở khai thị giả dă” (đấy
chính là điều được khai thị trong bản
kinh này). Đây là nói rơ bộ kinh này giảng điều ǵ?
Giảng về Chân Thật Tế, giảng chân tướng
này, không ǵ to lớn lọt ra ngoài, không ǵ nhỏ nhặt chẳng
được bao gồm. Đấy là biên tế; chẳng
ngoài, chẳng trong; đấy là “biên
tế”, nó không có biên tế. “Cực
Lạc diệu độ năi chân thật trí huệ chi sở
trang nghiêm thành tựu giả” (cơi nước mầu nhiệm
Cực Lạc được trang nghiêm thành tựu bởi
trí huệ chân thật). Câu này quan trọng lắm! V́ sao
chúng ta phải cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới? A Di Đà Phật mở một trường
học tại đó. Thế giới Cực Lạc là một
đại học Phật giáo, cũng có thể nói là một
đại học về Chân Thật Tế. Chúng sanh trong
mười pháp giới thuộc mười phương thế
giới, mười phương thế giới đều
có mười pháp giới, mười pháp giới là mê, chẳng
giác, những chúng sanh ấy đă giác ngộ, mong quay đầu,
nhưng t́m không ra phương pháp, nhất là chẳng t́m
được một phương pháp rất thỏa
đáng, rất nhanh chóng. A Di Đà Phật ban cho chúng ta một
môn phương tiện, tiếp dẫn quư vị về thế
giới Cực Lạc để tấn tu tại đó, hết
thảy điều kiện tu học bên ấy đều vô
cùng hoàn thiện, đấy là “trang
nghiêm thành tựu”. Trong phần trước, chúng ta thấy
ba thứ thành tựu, “trang
nghiêm Phật thành tựu, trang nghiêm Bồ Tát thành tựu,
trang nghiêm diệu độ thành tựu”, kinh gọi ba
thứ thành tựu này là ba thứ thành tựu chân thật.
Chúng
ta tập khí phiền năo nặng nề, mê rất sâu, những
điều đức Phật đă giảng trong kinh, chúng
ta hiểu rơ, nhưng chưa thể làm được! Chúng
ta có thể tin tưởng, v́ sao có thể tin tưởng?
V́ sau khi nghe những đạo lư ấy, chúng ta có thể khẳng
định chúng hợp lư, chẳng phải là vô lư, nên có thể
tin tưởng, có thể lư giải, nhưng chưa làm
được. Làm chưa được do chưa bỏ
xuống được! Thật đấy, chẳng giả
đâu! Buông xuống sẽ có thể khế nhập, bèn nhập
cảnh giới, như tôi vừa mới nói: Đi tới
cửa ngơ, nếu quư vị chẳng buông ba thứ ấy
xuống, sẽ chẳng tiến vào được! Quư vị
buông Thân Kiến xuống, buông Biên Kiến xuống, buông
Thành Kiến xuống, mới có thể tiến vào. Quư vị
chẳng buông xuống, sẽ không tiến vào được!
Hễ tiến vào, thưa quư vị, sẽ gọi là thánh
nhân, chẳng gọi là phàm phu; trong Tiểu Thừa là Tu
Đà Hoàn, Sơ Quả; trong Đại Thừa th́ như
kinh Hoa Nghiêm đă dạy: Bồ Tát thuộc địa vị
Thập Tín chứng đắc Sơ Tín, quư vị thấy tầng
thứ nhất là Sơ Tín. Thập Tín giống như Tiểu
Học trong Phật giáo, học lớp Một Tiểu Học,
trường học này có mười lớp, từ lớp
Một đến lớp Mười, quư vị vừa mới
vào lớp Một, trở thành thánh nhân. Khác với phàm phu ở
chỗ nào? Quư vị chỉ cần tiến nhập lớp
Một của ngôi trường ấy, chắc chắn chẳng
đọa trong tam ác đạo. Tuy chưa thoát khỏi lục
đạo, bảo đảm chẳng đọa tam đồ.
Không gian học tập của quư vị là bảy lần
sanh trong cơi trời hay nhân gian, chắc chắn sẽ thoát
ly lục đạo luân hồi, đạt được
sự bảo đảm ấy, đó là Vị Bất Thoái
trong ba thứ Bất Thoái, [tức là] địa vị của
quư vị chẳng thoái chuyển. Nhà Phật nói ba thứ Bất
Thoái, quư vị đạt được loại thứ nhất
(Vị Bất Thoái). Loại thứ hai là Hạnh Bất
Thoái, tức là Bồ Tát. Loại thứ ba là Niệm Bất
Thoái, đó là Pháp Thân đại sĩ, hoặc là Phật, chứ
Bồ Tát vẫn chưa làm được. Do vậy, ba tầng
lớp này chính là cảnh giới dần dần được
nâng cao lên.
A Di
Đà Phật kiến lập thế giới Cực Lạc
nhằm giúp đỡ chúng ta là những kẻ thiếu
năng lực đoạn phiền năo, chỉ cần chuyên
niệm A Di Đà Phật, quư vị có thể văng sanh. Đối
với A Di Đà Phật, chỉ nên chú tâm niệm, chớ
nên phân biệt. A Di Đà Phật có ư nghĩa rất rộng,
A là Vô, Di Đà là Lượng, đấy là tiếng Phạn,
chẳng phải là không thể dịch nghĩa, có thể dịch
nghĩa, nhưng do tôn trọng nên chẳng dịch. [A Di
Đà] là vô lượng. Phật th́ sao? Phật là giác ngộ.
[A Di Đà Phật là] vô lượng giác, vô lượng giác
là ǵ? Là danh hiệu của trí huệ Bát Nhă có sẵn trong tự
tánh. Nếu quư vị chẳng phân biệt, chẳng chấp
trước, niệm Phật hiệu là niệm tự tánh,
đó là “tự tánh Di Đà”.
Mỗi ngày niệm tự tánh, tự tánh phóng quang, tự tánh
bèn hiển lộ. Chẳng phải là hết thảy các
pháp sanh từ tâm tưởng ư? Đạo lư như thế
đó! Do vậy, niệm Phật thấy Phật, lúc lâm
chung, A Di Đà Phật, Quán Âm, Thế Chí đến tiếp
dẫn quư vị, đó là ǵ? Toàn là tự tánh biến, tự tánh Di Đà, tự tánh Quán Thế Âm,
tự tánh Đại Thế Chí, ngay cả Tây Phương Tịnh
Độ cũng là duy tâm Tịnh Độ, do Chân Như bổn
tánh của chính ḿnh hiện ra. Quư vị hiểu rơ đạo
lư này, liễu giải chân tướng sự thật, sẽ
nắm chắc niệm Phật văng sanh; quư vị có tín tâm,
chẳng c̣n hoài nghi nữa, lẽ nào chẳng thành tựu!
Do vậy, Thiện Đạo đại sư nói pháp môn
này là “vạn người tu, vạn
người về”, không ai chẳng thành tựu. Kẻ
niệm Phật chẳng văng sanh là ai vậy? [Thứ nhất
là những kẻ] hoài nghi pháp môn này, thứ hai là những
kẻ tu học pháp môn này nhưng tạp niệm quá nhiều.
Xen tạp nên tâm chẳng thuần, sẽ chẳng thể
tương ứng.
Chân
Thật Huệ do đâu mà có? Do tâm thanh tịnh mà có. Khi quư
vị xen tạp, tâm quư vị chẳng thanh tịnh. Tâm không
thanh tịnh chẳng sanh trí huệ, chỉ sanh phiền
năo. Phiền năo là vọng niệm. Vọng niệm ấy
niệm trước vừa diệt, niệm sau liền
sanh, vĩnh viễn chẳng ngừng, niệm này tiếp
theo niệm kia, đó là phiền năo tập khí, những thứ
ấy rất nghiêm trọng. Trong tu học pháp môn, cũng là
nói chuyển biến những phiền năo tạp niệm ấy,
khôi phục trí huệ chân thật. Trí huệ chân thật gọi
là Bồ Đề, khôi phục trí huệ chân thật th́ phương
pháp niệm Phật này tuyệt diệu! Trong tám vạn bốn
ngàn phương pháp, phương pháp Niệm Phật này
đơn giản nhất, dễ dàng nhất, ổn thỏa,
thích đáng nhất, thẳng chóng nhất, cho nên chọn lựa
pháp môn này là đại trí huệ! Có rất nhiều ông già
bà cả chẳng có học thức ǵ, không biết chữ,
quư vị dạy họ, họ bèn tin tưởng, chịu niệm,
có phải là chân trí huệ hay chăng? Đúng là chân trí huệ,
chính họ vẫn chẳng biết [chính ḿnh trọn đủ]
thiện căn, phước đức, nhân duyên. V́ sao quư vị
giảng cho kẻ khác nghe, kẻ ấy chẳng tin tưởng?
Giảng cho phần tử tri thức cao cấp nghe, họ
vẫn không tin, v́ sao? Có lắm chướng ngại, Phiền
Năo Chướng nặng nề, Sở Tri Chướng nặng
nề, hai thứ chướng ấy chướng ngại
họ. Chướng ǵ vậy? Chướng trí huệ, chướng
thiện căn, nhân duyên của người ấy. Do vậy,
chớ nên coi thường những ông già bà cả, đừng
coi thường họ. V́ sao họ có thể tiếp nhận?
Đời trước họ đă huân tập, đời
này vừa tiếp xúc, liền sanh tâm hoan hỷ, trong đời
quá khứ, trong A Lại Da có chủng tử Phật pháp, có
thiện căn Tịnh Tông, chẳng phải là không có đạo
lư!
“Di Đà Thế Tôn nhiếp thử
diệu độ, tuyên thử diệu pháp giả, dục
huệ dữ chúng sanh dĩ chân thật chi lợi dă” (Di
Đà Thế Tôn nhiếp cơi mầu nhiệm này, tuyên pháp mầu
này, muốn ban cho chúng sanh mối lợi chân thật). A Di
Đà Phật, trong Tây Phương Cực Lạc thế giới
quả thật có vị này, Ngài ở nơi đó, tuyên
dương pháp môn này. Pháp môn này được nói trong bộ
kinh Vô Lượng Thọ. Tuyên dương pháp môn này nhằm
mục đích ban cho chúng sanh, “huệ”
(惠) là bố thí, ban cho hết thảy
chúng sanh lợi ích chân thật. Hoàng lăo cư sĩ nói: “Thử tam chân thật” (ba
điều chân thật này), tức là Chân Thật Tế, trụ
Chân Thật Huệ, Chân Thật Lợi Ích, ba món chân thật
này một chính là ba, ba tức là một. Trong Chân Thật Bổn
Tế, nhất định có Chân Thật Huệ, nhất
định có Chân Thật Lợi Ích; trong Chân Thật Lợi
Ích, nhất định có Chân Thật Tế và Chân Thật
Huệ, một mà ba, tuy ba nhưng một. “Phương tiện cứu cánh, bất khả
tư nghị” (phương tiện rốt ráo, chẳng
thể nghĩ bàn). Tám vạn bốn ngàn pháp môn đều
là phương tiện môn, mà Tịnh Tông là môn phương
tiện nhất trong các môn phương tiện, đúng là
quá đơn giản, quá dễ dàng. V́ quá đơn giản,
quá dễ dàng, nên rất nhiều người không tin, ở
ngay trước mặt mà bỏ lỡ chẳng biết là bao
nhiêu. Chúng ta chớ nên khinh dễ người khác, bản
thân chúng ta trong nhiều đời nhiều kiếp quá khứ
cũng đă ở ngay trước mặt
mà bỏ lỡ chẳng biết bao nhiêu lần! Không có nhiều
thiện căn, phước đức, nhân duyên trong quá khứ
như vậy, dẫu đời này gặp gỡ cũng chẳng
thể tin tưởng; bởi thế, pháp môn này chẳng dễ
dàng, gọi là phương pháp khó tin, chẳng giả.
“Cực Lạc y chánh, Tịnh
Độ pháp môn, cử Thể thị chân thật chi tế,
cố vân bổn kinh dĩ Thật
Tướng vi thể tánh dă” (Trọn
vẹn cái Thể của y báo, chánh báo của cơi Cực Lạc
và pháp môn Tịnh Độ là Chân Thật Tế, cho nên nói
kinh này lấy Thật Tướng làm thể tánh). Tới cuối
cùng, tổng kết bộ kinh này dùng Thật Tướng làm
Thể, bộ kinh này nói về Thật Tướng của
các pháp. Đối với y báo và chánh báo trong thế giới
Cực Lạc, nói theo kinh th́ chánh báo là A Di Đà Phật, y
báo là hoàn cảnh cư trụ của A Di Đà Phật.
Chúng ta niệm Phật văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới th́ chánh báo là bản thân chúng ta, A Di
Đà Phật là hoàn cảnh y báo của chúng ta. Sau khi quư vị
tới thế giới Cực Lạc, mới thật sự
dần dần buông khởi tâm động niệm, phân biệt,
chấp trước xuống. Sau đấy mới biết
A Di Đà Phật và chính ḿnh là nhất thể, vũ trụ
và chính ḿnh là nhất thể, thế giới Cực Lạc
và chính ḿnh là nhất thể. Nếu trọn đủ trí
huệ chân thật, chúng ta hăy nghĩ xem [thế giới] hiện
tiền có phải là thế giới Cực Lạc hay
chăng? Đúng vậy, chẳng sai chút nào! Nhưng rất
nhiều người chẳng hiểu điều này, v́ sao?
Tâm thái chẳng xoay chuyển! Quư vị khởi tâm động
niệm hoàn toàn tương ứng với kinh th́ sẽ có
thể lănh hội: Không nơi nào chẳng phải là thế
giới Cực Lạc. Thế giới này của chúng ta nằm
trong thế giới Cực Lạc, v́ sao? Chẳng có lớn
hay nhỏ! Trong mỗi vi trần đều có thế giới,
trong thế giới lại có vi trần, trong vi trần lại
có thế giới, lẽ nào [thế giới hiện tiền]
chẳng ở trong [thế giới Cực Lạc]? Cho tới
lúc ấy, quư vị sẽ thấy A Di Đà Phật ở
khắp mọi nơi, hết thảy y báo và chánh báo đều
là A Di Đà Phật, chúc mừng quư vị, quư vị thành Phật.
Quư vị đă thành một vị Phật rất tuyệt
diệu, trở thành A Di Đà Phật. Chúng ta học phần
Bổn Kinh Thể Tánh tới đây.
Chúng
ta xem tiếp đoạn thứ ba, tức đơn vị
thứ ba [trong bộ chú giải này], Nhất Kinh Tông Thú, tức
là [phần giảng về] Tông và Thú của bộ kinh này. “Kinh chi sở sùng thượng giả,
danh chi vi Tông. Tông giả, yếu dă” (Điều
được kinh đề cao gọi là Tông; Tông nghĩa
là trọng yếu). Chữ Yếu này có ba ư nghĩa: Chủ
yếu, trọng yếu, và tuân theo. “Toàn kinh chi tông chỉ” (tông chỉ của cả bộ
kinh), Tông là tông chỉ. Câu tiếp theo lại giảng về
[ư nghĩa của] tông chỉ: “Hựu
Tông giả, tu hành chi yếu kính dă” (lại nữa, Tông
là đường lối trọng yếu trong tu hành), đó
là đường lối quan trọng. Chúng ta nói tới
tông chỉ của một bộ kinh th́ đó nguyên tắc
chỉ đạo tu học tối cao, đó là Tông. “Cố tri Tông giả, vi toàn kinh
chi cương lănh. Cương cử, mục trương,
lănh đề, y thuận. Thị cố ư Biện Thể
hậu, thủ ưng Minh Tông. Thể thị Lư, tông thị
Hành” (V́ thế, phải biết Tông là cương lănh của
cả bản kinh. Cái lưới giơ lên, mắt lưới
căng ra, nắm cổ áo, áo sẽ xuôi theo. V́ thế, sau
phần biện định Thể, trước hết phải
giảng rơ Tông. Thể là Lư, Tông là Hành). Ư nghĩa của hai
khoa lớn này đều được nói
rất rơ ràng, rất minh bạch. Phần trước là Biện
Thể, tức phân biệt, biện định bản thể
của kinh. Kinh Thể là căn cứ lư luận: Bộ
kinh này căn cứ trên lư luận nào để giảng, giảng
về điều ǵ? Trong phần trước, chúng ta
đă học, kinh này nương vào Thật Tướng, tức
chân tướng sự thật. Kinh nói những ǵ? Cũng
là nói về Thật Tướng. Nay chúng ta bàn cách tu, cách học
tập ra sao; v́ thế, nói đến Hành, tức Hành môn. “Thể giả, năi Tông sở y
chi Thể. Tông giả, tức thị hiển Thể chi Tông.
Nhị giả hỗ tương biểu lư. Tông thị hội
Thể chi yếu hạnh, cố ưng sùng thượng”
(Thể là cái Thể để Tông nương vào; Tông là cái
Tông nhằm hiển lộ Thể. Hai thứ này lần
lượt làm trong và ngoài của nhau. Tông là hạnh trọng
yếu để thấu hiểu Tông, cho nên cần phải
đề cao). Mấy câu này nói rất hay. Thể là chỗ
nương vào của Tông, tức là chỗ nương tựa,
căn cứ của việc tu hành, đấy là Thể.
Tông: Tông là hạnh, là nguyên tắc chỉ đạo tối
cao trong tu hành, sự tu hành ấy có thể hiển lộ Thể,
có thể hiển thị Thật Tướng trong hành vi
sinh hoạt của quư vị. “Hiển thị” là nói tới
điều ǵ? Trí huệ chân thật (Chân Thật Huệ),
Chân Thật Tế, Chân Thật Lợi Ích. Nếu quư vị
chẳng tu hành, ba thứ chân thật ấy sẽ chẳng
thể hiển lộ. Có thể thấy người thật
sự tu học Tịnh Tông, quư vị chú tâm quan sát, sẽ
thấy tư tưởng, lời nói và việc làm của
người ấy chắc chắn tương ứng với
ba câu ấy, từ Sơ Phát Tâm cho đến địa vị
Như Lai, dần dần nâng cao lên, dần dần mở rộng, lợi ích thù thắng ấy t́m ở
đâu ra? Do vậy, Lư Thể chẳng thể rời khỏi
sự tướng, rời khỏi sự tướng sẽ
biến thành huyền học. Sự tướng mà không có Lư
th́ sự tướng sẽ trái nghịch tự tánh; nếu
chẳng tùy thuận tự tánh sẽ là trái nghịch tự
tánh. V́ thế, hai thứ ấy (Lư và Sự) làm trong và ngoài
cho nhau: Ngoài là Sự, trong là Thật Tướng. “Hội Thể chi yếu”
(Điều quan trọng để thấu hiểu Thể),
hiển Thể, như vừa mới nói, đây là một
phương tiện trọng yếu, cho nên phải tuân theo,
phải đề cao.
Nói tới chỗ
này, chúng ta hiểu văn hóa truyền thống của Trung Hoa
lấy Hiếu làm Thể. Hiếu là ǵ?
Hiếu là Thật Tướng. Quư vị hăy nh́n vào chữ
Hiếu của Trung Quốc, sở dĩ văn tự Trung
Quốc chẳng thể thay đổi là v́ nó là phù hiệu
trí huệ, khiến cho quư vị nh́n vào phù hiệu ấy sẽ
hiểu được ư nghĩa của nó. Chữ Hiếu
(孝) phía trên là Lăo (老), phía dưới là Tử (子), hiển thị điều ǵ? Hiển thị quan hệ
luân lư. Phía trên c̣n có phía trên nữa, đó là tổ tông, quá khứ
vô thỉ (không có khởi đầu); đời tiếp
theo c̣n có đời tiếp theo nữa, vị lai vô chung
(không kết thúc). Vô thỉ vô chung là nhất thể! Do vậy,
người ngoại quốc nói tới “sự cách biệt
giữa các thế hệ”, người Hoa không có “sự cách
biệt giữa các thế hệ”. Nếu có “sự cách biệt
giữa các thế hệ”, sẽ là đại bất hiếu.
Quư vị nh́n vào chữ Hiếu ấy, những ư nghĩa
được bao hàm trong ấy dường như cũng
có ba thứ ư vị. Do vậy, văn hóa Trung Quốc là
văn hóa Hiếu, mở rộng ra thành Ngũ Luân, Ngũ Thường,
Tứ Duy, Bát Đức. Đấy là Tông. Chúng ta nói tới
Thể, nói tới Tông, lấy “tu
thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ” làm Thú, tức
Thú Hướng (điều để hướng về,
đạt đến). Chúng ta nói tới Thể, Tông và Thú của
toàn bộ văn hóa Trung Quốc chớ nên hiểu lầm,
nó tương ứng với Đại Thừa Phật
pháp, quư vị nói xem: Tổ tiên chẳng phải là Phật,
Bồ Tát tái lai th́ họ từ đâu đến? [Điều
này được] khẳng định! Thầy Lư nói: “Nói theo Lư th́ thông suốt,
nhưng trên mặt Sự thiếu chứng cứ”. Nói
theo Lư quả thật là hợp lư.
“Hương Tượng Tâm Kinh Sớ vân: Ngôn chi sở
quư viết Tông, Tông chi sở quy viết Thú” (Bản Tâm Kinh Sớ của ngài
Hương Tượng[5]
có viết: “Điểm được coi trọng trong lời
giảng th́ gọi là Tông, chỗ quy hướng của
Tông gọi là Thú”), đây là giải thích hai chữ Tông và
Thú. “Ngôn” là nói tới Giáo, tức
ngôn giáo. “Ngôn chi sở quư”: “Quư” là điều trọng yếu
nhất trong sự hướng dẫn giáo học, [điều
ấy] được gọi là Tông. Tông có nghĩa như vậy.
Chỗ quy hướng của Tông, tức là sau đấy
Tông sẽ trở về đâu, điều đó được
gọi là “thú hướng”.
Do vậy, Tông là nhân, Thú là quả; ở đây nói tới
nhân quả, tu nhân chứng quả. Tôi nương theo cái Tông
này để tu, tu đến cuối cùng sẽ đạt
được ǵ, cái quả ấy là Thú,
“tu nhân, thú quả” (tu nhân,
hướng đến quả). Tiếp đó, sách viết:
“Khuê Phong đại sư”, tức
là ngài Tông Mật, tổ sư đời thứ năm của
tông Hoa Nghiêm, “Viên Giác Lược
Sớ vân: Thú giả, ư thú, thú hướng. Tức tâm ư thức
sở quy thú chi xứ” (Viên Giác Lược Sớ ghi: “Thú
là có nghĩa là hướng đến, tức là chỗ quy
hướng của tâm ư thức”), lời giải thích này rất
rơ ràng. Thú (趣) là ǵ? Quy thú (歸趣), [tức là] chỗ quư vị
trở về, hướng đến chỗ nào. Chỗ
hướng về của tâm ư thức gọi là Thú Hướng.
“Khả tri, Thú
giả, quy thú dă. Thị cố, y kinh tông chỉ, minh kỳ
sở vi, thức kỳ sở cầu, cứu kỳ sở
chí, danh chi vi Thú” (Có thể
biết: Thú là hướng đến, quay về. V́ thế,
dựa vào tông chỉ của kinh để tỏ rơ việc
được làm, biết điều mong cầu, thấu
đạt tột cùng chỗ kinh sẽ đạt tới,
th́ gọi là Thú). Quư vị chiếu theo nguyên tắc chỉ
đạo trong bộ kinh điển này để tu hành, biết
đức Phật làm ǵ [khi giảng bộ kinh này], biết
Ngài mong cầu điều ǵ. Việc Ngài làm là ban bố lợi
ích chân thật, do điều này mà chư Phật, Bồ
Tát, tổ sư đại đức giảng kinh, diễn
giáo. “Diễn” ở đây
chẳng phải là “nghiên” trong “nghiên cứu”[6]
mà là biểu diễn. Ngài dạy bằng cách làm ra, biểu
diễn, thuyết kinh, diễn giáo, v́ sao? Nhằm ban cho
chúng sanh lợi ích chân thật. Người ta chưa hiểu
rơ [cho nên phải giảng kinh, diễn giáo], sau khi đă thật
sự hiểu rơ, cái tâm cung kính đối với Phật
giáo sẽ nẩy sanh tràn trề, tự nhiên sanh khởi,
tuyệt diệu quá! Chúng ta đối với những vị
Phật, Bồ Tát, tổ sư đại đức giảng
kinh thuyết pháp chẳng có chỗ tốt đẹp ǵ,
các Ngài ban cho chúng ta những điều lợi ích, lại
c̣n ban cho chúng ta lợi ích chân thật. Chúng ta đối với
các Ngài chẳng chân thật, nhưng các Ngài đối với
chúng ta luôn chân thật. Trong thế gian t́m đâu ra người
tốt lành dường ấy? Vậy là quư vị hiểu
rơ việc làm của các Ngài. “Thức
kỳ sở cầu” (biết điều mong cầu):
Các Ngài cầu điều ǵ? Các Ngài mong mỏi quư vị khai
ngộ, giúp quư vị phá mê khai ngộ. Sau khi ngộ, thấu
đạt điều sẽ đạt tới chính là quư vị
sẽ ĺa khổ được vui. Kinh Phật dạy
người ta như vậy. V́ thế, trong hết thảy
các pháp thế gian và xuất thế gian, trừ giáo học
ra, chẳng có cách nào khác có thể đạt được
[mục đích ấy]!
Vào thời
cổ ở Trung Quốc, đế vương từ Hoàng
Đế, Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, măi cho đến đời
cuối cùng, có đế vương nào chẳng tuân theo
giáo huấn của tổ tông? Đời đời truyền
nhau, giáo học làm đầu, đều xếp giáo dục
vào vị trí thứ nhất. Phật giáo truyền tới
Trung Quốc, tiến sĩ Thang Ân Tỷ (Arnold J. Toynbee) nói rất
hay: Người Trung Quốc tâm lượng lớn, phước
lớn, có thể bao dung văn hóa khác biệt. Phật giáo là
văn hóa Ấn Độ, truyền đến Trung Quốc,
được Trung Quốc tiếp nhận hoàn toàn, biến
thành văn hóa của chính Trung Quốc, phải có tâm lượng
rất lớn. Chẳng bài xích! Hơn nữa, văn hóa nhà
Phật từ Ấn Độ truyền đến Trung Quốc,
quả thật đă nâng cao nền văn hóa vốn có của
Trung Quốc trên một mức độ to lớn, v́ sao?
Dùng kinh Phật để giải thích
th́ giống như chúng tôi vừa mới nói: Văn hóa truyền
thống của Trung Quốc lấy Hiếu làm Thể, Luân
Thường, Bát Đức, Ngũ Luân, Ngũ Thường,
Tứ Duy là Tông, tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh
thiên hạ là Thú. Chúng ta dùng văn hóa Phật giáo để
giải thích, nâng cao văn hóa truyền thống của Trung Quốc, b́nh đẳng với Hoa
Nghiêm, Pháp Hoa, Vô Lượng Thọ trong Phật pháp, làm phong
phú văn hóa truyền thống Trung Quốc. Ngày nay nói tới
văn hóa truyền thống th́ Nho, Thích, Đạo là một
nhà, quyết định chẳng
tách rời. Nếu quư vị nói chẳng cần Nho, sẽ
nói chẳng xuôi, chẳng có cách nào nói cho vẹn toàn
được! Đề cương ấy của tổ
tông chẳng được tŕnh bày cặn kẽ, Phật
giáo truyền đến cơi này, giảng giải cặn kẽ,
đem kết hợp với đề cương của
tổ tông liền hoàn toàn khít khao, quá khó có! Cổ nhân
thông minh hơn con người hiện thời, có trí huệ
hơn người hiện thời. Đây là giải thích
rành rẽ thế nào là Tông, thế nào là Thú.
Kế
đó, chúng ta xét tông chỉ của bộ kinh này: “Ngụy dịch Vô Lượng
Thọ Kinh chi Tông Thú, cổ hữu đa giải, kỳ lệ
phi nhất” (đối với Tông và Thú của bản dịch
kinh Vô Lượng Thọ đời Ngụy, xưa kia có
nhiều cách giải thích, chẳng phải chỉ có một
cách). “Ngụy dịch” là bản
dịch của ngài Khang Tăng Khải (Samghavarman), là bản
được lưu thông rộng răi nhất trong năm bản
dịch. Nguyên nhân là do chúng ta đọc bản dịch của
ngài Khang Tăng Khải rất thuận tiện, so với
các bản khác dễ đọc hơn. Lại nữa, lời
giảng trong ấy cũng rất viên măn, rất khó có. V́
thế, có mấy vị cổ đức dùng bản này
để chú giải, như trong bản Gia Tường Sớ
(sớ giải kinh Vô Lượng Thọ của ngài Gia
Tường Cát Tạng) đă nói: “Thử kinh Tông Trí phàm hữu nhị lệ, nhất,
Di Đà tu nhân, cảm Tịnh Độ quả; nhị giả,
khuyến vật (chỉ chúng sanh) tu nhân, văng sanh bỉ độ”
(Tông Trí của kinh này có hai thứ: Một là Di Đà tu nhân,
cảm quả Tịnh Độ. Hai là khuyên vật (chỉ
chúng sanh) tu nhân, văng sanh cơi ấy), đây là lời giảng
về Tông Thú trong Gia Tường Sớ. Ngài nói Tông Thú có hai
trường hợp: Thứ nhất là A Di Đà Phật tu
nhân, cảm quả Tịnh Độ; đó là điều
được giảng trong kinh. Thế giới Cực Lạc,
nói thật ra là do nguyện lực của A Di Đà Phật
thành tựu, do bốn mươi tám nguyện thành tựu. Thứ
hai là “khuyến vật”, “vật” là chúng sanh, Ngài chẳng
nói “khuyến nhân”. Nếu nói
là “khuyến nhân” th́ chỉ
có nhân đạo trong mười pháp giới. Nếu “khuyến vật” th́ hết
thảy mười pháp giới đều bao gồm, có phạm
vi lớn hơn. Nhân nằm trong Vật, chẳng thể
bao gồm Vật, Vật có thể bao gồm Nhân. Do vậy,
khuyên hết thảy chúng sanh tu nhân ḥng văng sanh cơi ấy,
đấy là Thú. Hết sức rơ rệt, câu trước
là tu nhân, câu sau là hướng đến cái quả. Hai tầng:
Thứ nhất là Phật Di Đà tu nhân, cảm thế giới
Cực Lạc thành tựu viên măn. Thế giới Cực Lạc
quả thật chẳng có mảy may khiếm khuyết, do Tánh
Đức viên măn lưu lộ, công đức trang nghiêm. Thành
tựu như thế nào? Do trí huệ; v́ thế, trong phần
trước đă nói ba thứ trí huệ trọn đủ.
“Hải Đông Nguyên Hiểu
sư” (sư Nguyên Hiểu ở Hải Đông), Hải
Đông được nói ở đây nay là Hàn Quốc. Sư
Nguyên Hiểu cũng du học ở Trung Quốc, sau khi trở
về Hàn Quốc, là nhất đại cao tăng, tổ
sư đại đức của Hàn Quốc. Tôi chưa
đọc những tài liệu ấy, nhưng tôi nghĩ,
sư Nguyên Hiểu sống vào thời Đường, rất
có thể đă thân cận Thiện Đạo đại
sư, vị này là một tổ sư của Tịnh Độ
Tông. Bản chú giải của Sư có tên là [Vô Lượng
Thọ Kinh] Tông Yếu, trong ấy nói như sau: “Thử kinh chánh dĩ Tịnh
Độ nhân quả vi kỳ Tông Thể, nhiếp vật
(chỉ chúng sanh) văng sanh dĩ vi Ư Trí” (Kinh này lấy nhân
quả Tịnh Độ làm Tông Thể, lấy nhiếp thọ
chúng sanh văng sanh làm Ư Trí). [Cách hiểu] của sư Nguyên Hiểu
và ngài Gia Tường hết sức gần gũi, cùng một
ư nghĩa, trong ấy cũng có hai tầng ư nghĩa. “Đàm Loan”, có người cho
rằng Ngài phải là tổ sư Tịnh Độ Tông, nhưng
trong các vị tổ sư Tịnh Độ Tông không có tên
của Ngài; đối với Tịnh Tông, Ngài có cống hiến
hết sức to lớn. Ngài nói: “Dĩ
Phật danh hiệu vi kinh Thể” (dùng danh hiệu của
Phật làm Thể của kinh), từ đầu đến
cuối chẳng rời danh hiệu, cách nói này cũng có một
chút hợp lư: Trong Thể bao gồm cả Tông lẫn Thú,
v́ do một câu danh hiệu quư vị có thể văng sanh. Từ
xưa tới nay, người thành tựu do chấp tŕ danh
hiệu rất nhiều, một câu Phật hiệu niệm
đến rốt ráo, khi văng sanh, có thể biết trước
lúc mất, chẳng đau khổ, không bệnh tật qua
đời, bảo người chung quanh: “Phật tới
tiếp dẫn”, thật chẳng dễ dàng! Bất luận
tu học pháp môn ǵ cũng chẳng thể sánh bằng!
Nhưng mấu chốt của sự thành tựu ấy là ở
chỗ tín nguyện, tín nguyện kiên định, nhất định
chẳng có nghi hoặc th́ sẽ có thể đạt
được! Thậm chí chẳng cần phải học
tập kinh này, mà cũng chẳng cần phải đọc,
một câu Phật hiệu, chắc chắn thành tựu. Niệm
một câu Phật hiệu là buông xuống vạn duyên, thành
tựu phẩm vị cao hay thấp hoàn toàn tùy thuộc hành
nhân buông xuống được bao nhiêu. Nếu hành nhân thật
sự giống như kinh Hoa Nghiêm đă nói, các chấp
trước thế gian và xuất thế gian thảy đều
buông xuống, sẽ sanh vào cơi Phương Tiện Hữu
Dư. Nếu người ấy có thể buông phân biệt
xuống, hết sức có khả năng sanh vào cơi Thật
Báo. Sanh vào cơi Thật Báo th́ phải buông khởi tâm động
niệm xuống. Có thể buông phân biệt, chấp trước
xuống hay chăng? Có thể, v́ khi văng sanh, Phật quang
chiếu gội, nâng cao công phu gấp bội. Lúc lâm chung thấy
Phật, Phật lực gia tŕ; vừa được gia
tŕ, bao nhiêu công phu do quư vị tu sẽ tăng lên gấp bội,
nâng cao gấp bội, cho nên sanh vào cơi Thật Báo. Dùng
phương pháp ǵ để tu thành tựu? Một câu Phật
hiệu!
Trong
Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đă giảng
rất hay, trong phần sau cụ Hoàng có trích dẫn [lời
nhận định ấy]. Những vị khác, chưa ai
nói điều ấy, nhưng Ngẫu Ích đại sư
nói: “Có thể văng sanh hay không, do
có tín nguyện hay không quyết định!” Thật sự
tin tưởng, phát nguyện thiết tha, không một ai chẳng
văng sanh; phẩm vị cao hay thấp, ba bậc chín phẩm
trong bốn cơi, địa vị cao hay thấp do công phu sâu
hay cạn quyết định, tức là công phu niệm Phật
của quư vị cạn hay sâu. Công phu là ǵ vậy? Quư vị
buông xuống nhiều hay ít. Chúng ta hiểu đạo lư này,
v́ sao không chịu buông xuống? Không chịu buông xuống sẽ
tạo thành chướng ngại rất lớn đối
với phẩm vị văng sanh trong thế giới Cực Lạc.
Nếu quư vị có thể triệt để buông xuống,
quả thật có thể văng sanh trong cơi Thật Báo. Ở
đây có một tin tức hết sức trọng yếu
mà quư vị chẳng thể không biết: Quư vị tu pháp
môn khác, buông phân biệt, chấp trước xuống, chỉ
có thể sanh vào Phật pháp giới trong mười pháp giới,
hoàn toàn chẳng có cách thoát khỏi mười pháp giới,
v́ sao? Quư vị chưa đoạn vọng tưởng,
nhưng với công phu ấy trong pháp môn Tịnh Tông sẽ
quyết định sanh vào cơi Thật Báo, v́ sao? Phật tới
tiếp dẫn, Phật quang vừa chiếu, công phu
được nâng cao gấp đôi, đă nâng lên rồi. Tin
tức này trọng yếu lắm! Nhanh lắm! Giống
như nói: Khi quư vị đạt tới địa vị
Thập Tín, địa vị Đệ Thập Tín, trong chốc
lát, Phật sẽ nâng [cảnh giới của quư vị]
lên tới Sơ Trụ Bồ Tát, nâng cao trong chốc lát,
đấy là oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ, là
ân huệ, ân đức của A Di Đà Phật. Do vậy,
quư vị có thể buông chấp trước xuống, Phật
có thể giúp đỡ quư vị, khi văng sanh chẳng có phân
biệt. Không chỉ chẳng có chấp trước, mà phân
biệt cũng không có, được nâng cao, trong chín phẩm
của bốn cơi Tịnh Độ, sẽ được
nâng cao với một mức độ rất lớn. Chúng
ta chớ nên không hiểu điều này.
“Thiện Đạo sư vân”
(ngài Thiện Đạo nói), vị này là tổ sư đời
thứ hai của Tịnh Tông chúng ta, Ngài là người
đời Đường, “Niệm
Phật tam-muội vi Tông, nhất tâm hồi nguyện văng sanh
Tịnh Độ vi Thể (Thể tự tức chỉ Tông
Thú chi Thú)” (Niệm Phật tam-muội là Tông, một ḷng
phát nguyện hướng về văng sanh Tịnh Độ
là Thể (chữ Thể ở đây chính là Thú trong Tông Thú)),
hăy hiểu rơ lời chú giải này, chớ nên hiểu lầm
ư nghĩa. Cùng một chữ, nhưng Ngài nói về điều
ǵ, điều này rất quan trọng. Chữ Thể [trong
lời dạy của ngài Thiện Đạo] chính là Thú
trong Tông Thú, tức Thú Hướng. Lấy Niệm Phật
tam-muội làm tông, có cùng một ư nghĩa với ngài Đàm
Loan “lấy danh hiệu Phật
làm Thể của kinh”. Chữ Thể của ngài [Đàm
Loan] có nghĩa là Tông, c̣n Thiện Đạo đại
sư nói chữ Thể lại có nghĩa là Thú. Do vậy,
chữ giống nhau, nhưng quư vị đọc đoạn
văn trước và sau, sẽ biết nó chỉ điều
ǵ. Dùng Niệm Phật tam-muội, tức là như trong bộ
kinh này đă nói “nhất hướng
chuyên niệm”, phát Bồ Đề tâm, một mực
chuyên niệm. Phát Bồ Đề tâm là buông xuống, một
mực chuyên niệm chính là Niệm Phật tam-muội. Nhất
tâm quay về nguyện văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới, đấy là chỗ quy túc. “Nhật Thích Quán Triệt Hợp Tán vân” (trong bộ
Hợp Tán của sư Thích Quán Triệt người Nhật),
tác phẩm chú giải của Sư có tên là Hợp Tán, tức
Vô Lượng Thọ Kinh Hợp Tán. “Thử kinh niệm Phật vi Tông, văng sanh vi Thể
(tức Thú)”, chữ Thể này cũng có nghĩa là Thú,
cũng theo cách nói ấy. “Nhất
kinh sở tôn chuyên tại niệm Phật, cố dĩ niệm
Phật vi chi Tông dă. Tông chi sở thú duy tại văng sanh, cố
dĩ văng sanh vi kinh Thể (tức Thú)” (Điều
được kinh tôn trọng là chuyên niệm Phật, nên
lấy niệm Phật làm Tông. Tông chỉ nhằm hướng
đến văng sanh, nên lấy văng sanh làm Thể (tức Thú)
của kinh này). Đây là một đoạn văn trong sách
Hợp Tán.
Chúng
ta xem tiếp đoạn dưới: “Tịnh Tông xưng Vô Lượng Thọ Kinh vi Đại
Kinh, A Di Đà Kinh vi Tiểu Kinh. Cái thử nhị kinh cẩn
hữu tường lược chi biệt. Cố Liên Tŕ Sớ
Sao xưng Đại Kinh vi Đại Bổn, Tiểu Kinh
vi Tiểu Bổn, lương dĩ nhị giả thật
đồng nhất kinh dă” (Tịnh Tông gọi kinh Vô
Lượng Thọ là Đại Kinh, kinh A Di Đà là Tiểu
Kinh. Ấy là do hai kinh chỉ khác nhau ở chỗ tường
tận hay đại lược. V́ thế, trong bộ Sớ
Sao, ngài Liên Tŕ gọi Đại Kinh là Đại Bổn, gọi
Tiểu Kinh là Tiểu Bổn do hai kinh thật sự là cùng
một kinh). Những điều này là kiến thức thông
thường trong Tịnh Tông, chúng ta cần phải biết.
“A Di Đà Kinh chi Tông Thú, diệc
hữu đa thuyết” (Tông Thú của kinh A Di Đà
cũng có nhiều thuyết). V́ hai kinh là cùng một bộ
kinh, Tông Thú [của kinh A Di Đà] có thể dùng để tham
khảo [nhằm phán định Tông Thú của kinh Vô Lượng
Thọ], cũng đều là cùng một chuyện. Kế
đó: “Tư trạch kỳ
tinh yếu giả, như Sớ Sao” (Ở đây, chọn
ra những thuyết tinh yếu, như Sớ Sao), [Sớ
Sao] do Liên Tŕ đại sư soạn, “y chánh thanh tịnh, tín nguyện văng sanh, dĩ vi Tông
Thú” (y báo, chánh báo thanh tịnh, tín nguyện văng sanh, [lấy
đó] làm Tông Thú). Y báo và chánh báo của Tây Phương Cực
Lạc thế giới không ǵ chẳng thanh tịnh, đấy
là Tông; tín nguyện văng sanh là Thú. Ư nghĩa sâu hơn một
tầng, chúng ta là người tu Tịnh Độ, đối
với y báo và chánh báo hiện tiền, phải lấy thanh
tịnh làm tiêu chuẩn, tương ứng với tựa
đề của bản kinh này. Tựa đề kinh
đă dạy chúng ta phương pháp tu hành, mà cũng là tông
yếu tu hành: “Thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác”, đấy là Nhân. Chánh báo của
chúng ta, tức thân của chính ḿnh phải thanh tịnh, hoàn
cảnh phải thanh tịnh, thanh tịnh hoàn cảnh
như thế nào? Thân chúng ta thanh tịnh, hoàn cảnh sẽ
thanh tịnh, thân gây ảnh hưởng tới hoàn cảnh.
Tín nguyện tŕ danh, cầu sanh Tịnh Độ, đấy
là thật chẳng giả, lấy điều này làm Tông Thú.
“Viên Trung Sao vân: Dĩ tín nguyện
tịnh nghiệp vi nhất kinh Tông Trí” (sách Viên Trung Sao
viết: “Lấy tín nguyện tịnh nghiệp làm Tông Trí của
kinh”). “Tông Trí” là Tông Thú, tin
sâu, nguyện thiết, chuyên tu Tịnh nghiệp, đấy
là cương lănh chỉ đạo tu học trong Tịnh
Tông. “Di Đà Yếu Giải viết”
(sách Di Đà Yếu Giải nói), đây là bản chú giải
của Ngẫu Ích đại sư, “dĩ tín nguyện tŕ danh vi Tông” (lấy tín nguyện
tŕ danh làm Tông). Tin sâu, nguyện thiết, chấp tŕ danh hiệu,
sẽ có thể văng sanh thế giới Cực Lạc. Cụ
Hoàng đă trích dẫn ba bản chú giải kinh Di Đà, ba bản
này quan trọng nhất: Bộ Sớ Sao của ngài Liên Tŕ,
bộ Yếu Giải của ngài Ngẫu Ích, bộ Viên
Trung Sao của pháp sư U Khê. Đại Bổn và Tiểu
Bổn nội dung đă là nhất trí, cho nên Tông Thú cũng
chẳng thể là ngoại lệ được!
“Tổng thượng đại
tiểu nhị bổn, trung ngoại chư gia sở minh Tông
Thú, giai dĩ tín nguyện tŕ danh, văng sanh Tịnh Độ
vi bổn. Ư thị, quảng tham chư gia chi thuyết,
cứ bổn kinh chi văn, tiêu minh bổn kinh Tông Thú viết”
(Tổng hợp những thuyết về Tông Thú của
Đại Bổn và Tiểu Bổn do các vị sớ giải
trong ngoài nước đă nêu ra, do vậy, tham khảo rộng
khắp các thuyết của các vị, dựa trên kinh
văn của kinh này, nêu rơ Tông Thú của kinh này là...). Phần
sau là kết luận của cụ Hoàng Niệm Tổ. “Bổn kinh dĩ phát Bồ Đề
tâm, nhất hướng chuyên niệm vi Tông” (kinh này lấy
phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm làm
Tông), đây là nguyên tắc chỉ đạo tu học tối
cao; “dĩ viên sanh tứ độ,
kính đăng Bất Thoái vi Thú” (lấy sanh trọn vẹn
trong bốn cơi, nhanh chóng chứng Bất Thoái làm Thú), đấy
là quy thú. Chữ “viên sanh” tuyệt
lắm! “Viên” là viên măn, đây
là chỗ thù thắng của thế giới Cực Lạc,
Di Đà trí huệ hoằng nguyện viên măn. V́ sao? Trong nguyện
thứ mười chín, đă có nguyện “phát Bồ Đề tâm”, trong ấy có kinh văn
để làm căn cứ như vậy, sanh về thế
giới Cực Lạc “giai tác A
Duy Việt Trí Bồ Tát” (đều là Bất Thoái Chuyển
Bồ Tát). Chữ Viên trong từ ngữ “viên sanh” của cụ Niệm Tổ xuất phát
từ chỗ này. A Duy Việt Trí là Viên, điều này rất
chẳng thể nghĩ bàn! Từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta đọc
thấy Sơ Trụ Bồ Tát phá một phẩm vô minh, chứng
một phần Pháp Thân, chứng ba thứ Bất Thoái, ba thứ
Bất Thoái thảy đều trọn đủ: Vị Bất
Thoái, Hạnh Bất Thoái, Niệm Bất Thoái, đă chứng
đắc, nhưng chưa thể gọi là Viên. Viên chứng
ba món Bất Thoái là địa vị nào? Từ Thất
Địa trở lên, địa vị đă nâng lên cao bao
nhiêu? Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng,
cho tới Thất Địa trong Thập Địa, địa
vị đă nâng lên bao nhiêu? Nâng cao hơn ba mươi sáu
địa vị!
Pháp môn này được
gọi là “pháp khó tin”, nói thật ra là hết sức khó tin. Quư
vị nói: “Những vị Bồ Tát b́nh thường tu
đến địa vị này khổ cực lắm, tốn
bao nhiêu thời gian mới đạt tới địa vị
này, làm sao có thể vừa sanh về thế giới Cực
Lạc bèn đạt tới? Đâu có đạo lư này!” Do
vậy, đức Phật nói pháp môn Tịnh Tông, “duy Phật dữ Phật phương
năng cứu cánh” (chỉ có Phật và Phật mới
có thể thấu hiểu rốt ráo), đối với
pháp môn Tịnh Độ, Đẳng Giác Bồ Tát giống
như cách một lớp the ngắm trăng. Thời cổ
chưa có thủy tinh, dùng “la sa”
(the lượt), lượt, là, the, đoạn, “la” (羅) là loại vải sa rất mịn
[để che hay bịt cửa sổ], cách một lớp
the để ngắm trăng, c̣n cách một tầng! Chỉ
có thành Phật mới rốt ráo hiểu rơ, mới biết
là chuyện ra sao. Bổn nguyện và oai thần của A Di
Đà Phật chẳng thể nghĩ bàn. Do vậy, quư vị
tới thế giới Cực Lạc, có thể hưởng
thụ tức là được đăi ngộ giống
như Thất Địa Bồ Tát, hiện thời nói là “đăi
ngộ”, hưởng thụ giống như Thất Địa
Bồ Tát. A Duy Việt Trí Bồ Tát mà! Chẳng phải là hạng
Bồ Tát tầm thường! Viên chứng ba thứ Bất
Thoái, khó có lắm! Thật chẳng dễ ǵ tin tưởng
được! Hạ hạ phẩm văng sanh về cơi Phàm
Thánh Đồng Cư, tới thế giới Cực Lạc
cũng là A Duy Việt Trí Bồ Tát. Chúng ta đọc đoạn
kinh văn nói về bốn mươi tám nguyện, trọn
chẳng thấy A Di Đà Phật bảo “hạ hạ phẩm
trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư bị gạt ra ngoài”. Ngài
chẳng nói lời này, chẳng có câu ấy, điều
đó có nghĩa là hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm
Thánh Đồng Cư cũng là A Duy Việt Trí Bồ Tát. Do
vậy, thế giới Cực Lạc gọi là thế giới
b́nh đẳng, thật sự b́nh đẳng.
Do vậy, trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại
sư giải thích chữ A Bệ Bạt Trí trong kinh Di
Đà chính là chữ A Duy Việt Trí trong kinh Vô Lượng
Thọ. Tiếp theo câu ấy, Ngài nói: [Quư vị đă] văng sanh
Tây Phương Cực Lạc thế giới, nói quư vị
là Bồ Tát th́ phiền năo tập khí chưa đoạn, một
phẩm cũng chưa đoạn, văng sanh trong bậc
Hạ là chưa đoạn. Nói quư vị chẳng phải là
Bồ Tát, th́ quư vị hưởng thụ đăi ngộ giống
như Thất Địa Bồ Tát. Do vậy, Ngẫu Ích đại
sư bảo: Chẳng thể nói quư vị là phàm phu,
cũng chẳng thể nói quư vị là Bồ Tát; mà cũng có
thể nói quư vị là Bồ Tát, và cũng có thể nói quư vị
là phàm phu. Tới thế giới Cực Lạc, thân phận
là như vậy! [Đối với] thân phận trong thế
giới Cực Lạc, nếu chính ḿnh thật sự tu
đắc A Duy Việt Trí sẽ chẳng cần A Di Đà
Phật gia tŕ nữa, chính quư vị đă đạt tới
chuẩn mức sống [của bậc thượng thiện
trong cơi Cực Lạc], chẳng cần A Di Đà Phật giúp
đỡ, chuyện này vẫn phải mất một khoảng
thời gian. Đúng như Quán Kinh đă nói, hạ hạ phẩm
văng sanh phải tu mười hai đại kiếp, đại
kiếp ấy là đại kiếp trong nhân gian; nhưng
trong thế giới Cực Lạc, thọ mạng của
quư vị là vô lượng thọ, cho nên mười hai
đại kiếp bất quá cũng giống như mười
hai ngày, rất nhanh, thời gian bên đó và thế giới
chúng ta chẳng giống nhau. V́ vậy, đến thế
giới Cực Lạc thành tựu đặc biệt dễ
dàng. Nếu chúng ta liễu giải chẳng thấu triệt
chuyện này, không hiểu rơ lắm, sẽ thường lầm
lỡ một đời này, v́ sao? Chẳng chuyên tâm tu. Hoàn
toàn dồn hết thời gian và tinh lực của chúng ta
để tu pháp môn này, sẽ thành tựu rất nhanh. Thật
sự phải buông xuống, chẳng buông xuống sẽ
chịu thiệt tḥi to lớn. V́ thế, kinh do đức
Phật nói, Tam Tạng pháp sư phiên dịch, tổ sư
đại đức chú giải, [các vị ấy] đều
chẳng phải là phàm nhân. Từ chỗ này, ta thấy các
vị Phật, Bồ Tát thật sự quan tâm, thật sự
chiếu cố những chúng sanh mê hoặc, điên đảo
trong lục đạo, vô lượng vô tận ân huệ!
[Thế mà chúng sanh] chẳng biết! Có biết th́ mới
biết báo ân, tri ân mới có thể báo ân; chẳng biết
ân làm sao có thể báo ân? Báo ân bằng cách nào? Y giáo tu hành! Có
thể văng sanh trong một đời
này chính là báo ân. Hạ hạ phẩm văng sanh về cơi Đồng
Cư cũng là báo ân Phật, Phật hoan hỷ, chẳng cô
phụ Phật, Tổ! Hai chữ Tông Thú nói tới đây!
Phần
tiếp theo mới nói tới Tông Thú của bản kinh này,
v́ chúng ta nói tỉ mỉ. Đoạn thứ nhất “Giáp, thủ minh Tông” (Một,
trước hết giảng về Tông), trước hết, giảng
nguyên tắc chỉ đạo tu hành trong bản kinh này: “Kinh trung Tam Bối Văng Sanh phẩm
trung, sở hữu thượng trung hạ tam bối văng sanh
chi nhân, mạc bất dĩ phát Bồ Đề tâm, nhất
hướng chuyên niệm vi nhân” (Trong phẩm Tam Bối
Văng Sanh của kinh này, tất cả những người
văng sanh trong ba bậc thượng, trung, hạ, không ai chẳng
lấy phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm
làm nhân). Đối với câu kinh văn này, trong phẩm Tam
Bối Văng Sanh có tất cả bốn đoạn, ba đoạn
trước là thượng bối, trung bối, hạ bối,
trong cuốn Khoa Phán, pháp sư Từ Châu đă gọi
đoạn cuối cùng là “nhất
tâm tam bối”. Đoạn ấy giảng điều ǵ?
Nói về người tu Đại Thừa, chẳng chuyên
tu Tịnh Độ mà tu Đại Thừa. Người
tu Đại Thừa, bất luận tu pháp môn nào, lúc lâm
chung, đem những ǵ đă tu học hồi hướng Tịnh
Độ, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, thảy đều có thể văng sanh. A Di Đà Phật
tâm lượng to lớn, bất luận quư vị tu pháp
môn nào, chỉ cần quư vị trọn đủ điều
kiện này, thảy đều có thể văng sanh. Nhưng quư
vị phải nhớ điều rất quan trọng là bất
luận tu hành pháp môn nào, do v́ quư vị thật sự văng sanh,
cuối cùng vẫn là tín nguyện tŕ danh, vẫn là tới cuối
cùng, bất luận tu pháp môn ǵ, công đức ấy đều
giúp quư vị đến thế giới Cực Lạc,
tăng cao phẩm vị, tuyệt diệu thay! Quư vị phải
có cái tâm Đại Thừa th́ mới được.
Đại
Thừa là ǵ? Đại Thừa là tự lợi, lợi
tha, đó là Đại Thừa. Chỉ nói tới tự lợi,
chẳng nói tới lợi tha, đấy là Tiểu Thừa.
Đại hay Tiểu Thừa chẳng phải do kinh điển
sai biệt, chẳng phải do giáo tướng sai biệt,
mà do tâm lượng của chính ḿnh sai biệt. Hiểu rơ ư
nghĩa này, chúng ta học tôn giáo khác có được
chăng? Suốt đời học Cơ Đốc Giáo, suốt
đời học Y Tư Lan Giáo (Islam, đạo Hồi),
khi lâm chung, niệm Phật có thể văng sanh hay chăng? Chắc
chắn văng sanh. Người ấy tu công đức đó,
nhất định cũng nâng cao phẩm vị, pháp môn này to quá! Trong các thứ giáo học tôn
giáo, Tịnh Tông là đa nguyên văn hóa, tôn giáo ǵ cũng đều
bao gồm, từ kinh điển chúng ta có thể thấy
điều này. Người đọc kinh Địa Tạng
rất nhiều, quư vị xem kinh Địa Tạng, thấy
[kinh nói tới] Bà La Môn, đọc thấy chữ “ngoại
đạo”, đó là ǵ? Đó là tôn giáo khác, đức Phật
chẳng bài xích. Thuở Phật tại thế, bất luận
quư vị tín ngưỡng tôn giáo nào, đức Phật tuyệt
đối chẳng bảo quư vị buông bỏ tôn giáo của
chính ḿnh, tu theo Ngài, không hề có! Đối với niềm
tin tôn giáo, quư vị vẫn tin tôn giáo của chính ḿnh,
vẫn chiếu theo giáo lư của quư vị để tu học,
đức Phật giảng cho quư vị trí huệ. Do vậy,
thuở ấy, đức Phật giáo học, chẳng phân
biệt quốc tịch, chẳng phân biệt sắc tộc,
chẳng phân biệt tôn giáo, bất luận quư vị thuộc
bối cảnh văn hóa nào, Ngài đều chẳng phản
đối, chỉ cần quư vị tới học đều
hoan nghênh, người đến chẳng cự tuyệt, kẻ
đi chẳng giữ lại, Phật dạy theo cách ấy.
Do vậy,
những ǵ mà Thích Ca Mâu Ni Phật đă phô diễn rộng
răi, người hiện thời gọi là “đa nguyên
văn hóa”. Trong tâm mục của Phật, Bồ Tát, tất
cả hết thảy chúng sanh, bất đồng tôn giáo cũng
thế, mà bất đồng văn hóa [cũng vậy],
cũng đều có cùng một Thể với chính ḿnh. Không
chỉ quư vị sống trên địa cầu có cùng một
Thể với chúng tôi, mà ở trên tinh cầu khác vẫn là
một Thể. Trọn khắp pháp giới hư không giới
đều là một Thể, lẽ đâu c̣n có phân biệt?
Làm sao có chấp trước? [Phân chia] người của
chúng ta, người của bọn họ, đấy là ǵ? Đấy
là tri kiến phàm phu, là cái tâm luân hồi. Tâm luân hồi học
Phật cũng là tạo nghiệp luân hồi, cũng chẳng
thoát khỏi lục đạo luân hồi, tâm lượng
quá nhỏ, chớ nên không biết. Phàm phu có quan niệm ấy,
Phật, Bồ Tát không có, người tu Tịnh Độ
cũng phải nên không có. Đó mới là đúng, đấy
gọi là Bồ Đề tâm. Bồ Đề tâm là tâm giác
ngộ, đến phần sau chúng tôi sẽ giảng cặn
kẽ. Thể của Bồ Đề tâm là chân thành tâm, sau
khi giác ngộ sẽ có Tự Thụ Dụng và Tha Thụ Dụng.
Dùng tựa đề kinh [để nói] th́ là tâm thanh tịnh,
tâm b́nh đẳng, tâm chánh giác. “Thanh
tịnh b́nh đẳng giác” là Tự Thụ Dụng, c̣n
Tha Thụ Dụng là dùng tâm ǵ để đối đăi
người khác? Đại từ, đại bi. Từ bi là
ǵ? Tâm chân thành yêu thương đối với người
khác. Quư vị không có Bồ Đề tâm, sẽ chẳng phải
là một mực chuyên niệm, chẳng phải là tu Tịnh
Tông. Mở đầu của Tịnh Tông là nguyên tắc chỉ
đạo tu học tối cao này!
Kế
đó, cụ trích dẫn rất hay: “Hựu Di Đà đệ thập cửu nguyện
viết: Văn ngă danh hiệu, phát Bồ Đề tâm, tu
chư công đức, phụng hành Lục Ba La Mật, kiên
cố bất thoái. Phục dĩ thiện căn hồi
hướng, nguyện sanh ngă quốc. Nhất tâm niệm ngă,
trú dạ bất đoạn. Lâm thọ chung thời, ngă dữ
chư Bồ Tát chúng, nghênh
hiện kỳ tiền, kinh tu du gian, tức sanh ngă sát, tác A
Duy Việt Trí Bồ Tát” (Lại nguyện thứ mười
chín của Phật Di Đà là: “Nghe danh hiệu ta, phát Bồ
Đề tâm, tu các công đức, phụng hành sáu Ba La Mật,
kiên cố chẳng lui sụt, lại đem thiện
căn hồi hướng, nguyện sanh về cơi ta. Nhất
tâm niệm ta, ngày đêm chẳng dứt. Khi lâm chung, ta cùng
các vị Bồ Tát đến đón trước mặt,
trong khoảnh khắc sanh về cơi ta, thành bậc A Duy Việt
Trí Bồ Tát”). Đoạn kinh văn này trọng yếu! Bốn
mươi tám nguyện do chính A Di Đà Phật nói, Thích Ca Mâu
Ni Phật thuật lại cho chúng ta nghe, từng câu từng
chữ đều do chính A Di Đà Phật nói. Do vậy,
toàn bộ phẩm thứ sáu do A Di Đà Phật nói, c̣n có
thể hư giả ư? Quư vị xem nguyện thứ
mười tám: “Phát Bồ
Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”, đấy
là Tông; nguyện thứ mười chín là Thú Hướng, Tông
Thú, sanh về thế giới Cực Lạc làm A Duy Việt
Trí Bồ Tát. Trong nguyện mười tám, đức Phật
cũng nói và cũng được cụ trích dẫn ở
đây. Kế đó là: “Đệ
thập bát nguyện viết: Văn ngă danh hiệu, chí tâm
tín nhạo, sở hữu thiện căn, tâm tâm hồi
hướng, nguyện sanh ngă quốc. Năi chí thập niệm,
nhược bất sanh giả, bất thủ Chánh Giác. Duy
trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp” (nguyện
thứ mười tám là: “Nghe danh hiệu ta, chí tâm tin
ưa, tất cả thiện căn tâm tâm hồi hướng,
nguyện sanh về cơi ta. Thậm chí mười niệm mà
chẳng sanh th́ chẳng giữ lấy Chánh Giác. Chỉ trừ
Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp”). Ở chỗ này, tạo
tội Ngũ Nghịch có thể văng sanh hay không? Có thể
văng sanh, chỉ cần quư vị chẳng hủy báng chánh
pháp, quư vị có thể tin, có thể nguyện, đều
có thể văng sanh. Do vậy, câu cuối cùng là trọng yếu
nhất, quư vị hủy báng là ǵ? Chẳng chịu tiếp
nhận! Vậy là chẳng có cách nào hết. Chỉ cần
quư vị chịu tiếp nhận, không ai chẳng văng sanh. Do
vậy, lúc lâm chung, thậm chí mười niệm, đều
có thể văng sanh. Những trường hợp như vậy
rất nhiều, thời cổ đă được ghi
chép, chúng ta hăy đọc Tịnh Độ Thánh Hiền Lục,
Văng Sanh Truyện; hiện thời trong số các đồng
tu niệm Phật, chúng tôi cũng đă thấy.
Chính
mắt tôi thấy một trường hợp là cư
sĩ Châu Quảng Đại ở Mỹ. Ông này là người
thật thà, là người tốt, suốt đời chẳng
tin tôn giáo, chẳng có niềm tin tôn giáo. Ông ta mở một
tiệm bánh ḿ tại Mỹ, bị bệnh ung thư. Tới
thời kỳ cuối, bệnh viện từ chối trị
liệu, bảo người nhà chở về, ông ta chẳng
c̣n sống được mấy ngày. Khi ấy, người
nhà cũng chẳng tin tôn giáo, nhưng lúc ông ta sắp chết
mới đi cầu thần, mong mỏi có kỳ tích xuất
hiện. Ở nơi ấy, nhằm lúc chúng tôi có một hội
Phật giáo, tức Hoa Phủ Phật Giáo Hội, tại Washington
DC. Họ t́m đến chúng tôi, có các đồng tu đến
trợ niệm cho ông ta. Đến nơi đó, thấy
t́nh h́nh ấy, bảo ông ta: Quả thật là không có cách nào
chữa lành được, khuyên dạy ông ta đừng cầu
lành bệnh, giảng cho ông ta nghe Tây Phương Cực Lạc
thế giới, giảng mạng người vô thường,
không nên lưu luyến thế gian này, tới thế giới
Cực Lạc tốt đẹp như thế nào, giảng
cho ông ta nghe. Sau khi nghe xong, ông ta hết sức vui vẻ, tiếp
nhận, bảo vợ, con thơ và con gái trong nhà: “Các ngươi
đừng t́m cách chữa trị, đừng cầu ta
lành bệnh nữa. Các ngươi hăy cùng niệm Phật giúp
ta văng sanh”. Niệm ba ngày ba đêm, ông ta ra đi, tướng
lành hết sức hiếm có, hỏa táng c̣n có xá-lợi. Đây
là nói “lâm chung mười niệm ắt sanh”. Ông ta lúc lâm
chung mới tin tưởng, tiếp nhận. Năm sáu
người [liên hữu] và thân nhân của ông ta, đại
khái là mười mấy người, suốt ba ngày ba
đêm thay phiên nhau trợ niệm giúp ông ta bèn thành công.
Đây là một trường hợp chính mắt tôi thấy,
lúc ra đi an tường, chẳng kinh sợ, chẳng hoảng
hốt, sau khi mất, thân thể mềm mại. Kinh nói chẳng
giả, có thể nói là thiện căn, phước đức,
nhân duyên trong đời quá khứ thành tựu. Quả thật
chẳng dễ dàng! Vừa nói, ông ta bèn tiếp nhận, hoan
hỷ, thật sự làm theo, thật sự được
thụ dụng.
Do vậy,
tiếp theo [cụ Hoàng] viết: “Khả kiến đệ thập cửu nguyện
trọng tại phát Bồ Đề tâm, nhất tâm niệm
ngă. Đệ thập bát nguyện trọng tại chí tâm
tín nhạo, nhất hướng chuyên niệm. Cố tri
phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm
thị Di Đà bổn nguyện chi tâm tủy, toàn bộ
đại kinh chi tông yếu, văng sanh tất bị chi chánh
nhân, phương tiện độ sanh chi từ hàng, bổn
kinh sở sùng, toàn tại ư thử, tu hành yếu kính,
duy tư tiệp yếu, cố vi bổn kinh chi tông dă”
(Có thể thấy là nguyện thứ mười chín chú trọng
“phát Bồ Đề tâm, nhất tâm niệm ta”. Nguyện thứ
mười tám chú trọng “chí tâm tin ưa, một mực
chuyên niệm”. V́ thế, biết “phát Bồ Đề tâm,
một mực chuyên niệm” là tâm tủy của Di Đà bổn
nguyện, là tông yếu của toàn bộ đại kinh, là
chánh nhân ắt phải đủ trong văng sanh, là thuyền Từ
để làm phương tiện độ sanh. Điều
được kinh đề cao đă hoàn toàn thuộc trong
ấy. Đường tu hành trọng yếu, chỉ có con
đường nhanh chóng, quan trọng này. V́ thế, đó
là Tông của kinh này vậy). Kết luận khéo lắm, hết
thảy đều là dựa theo nguyên văn trong kinh. Nguyên
tắc chỉ đạo tu học tối cao là “phát Bồ Đề tâm, nhất
hướng chuyên niệm”. Nhật Bản có một phái
cũng tu Tịnh Tông, nhưng chỉ chú trọng “nhất hướng chuyên niệm”,
chẳng phát Bồ Đề tâm; v́ thế gọi là Bổn
Nguyện Niệm Phật. Không được rồi! Đă
sơ sót! Chỉ giữ lấy nguyện thứ mười
tám, chẳng học nguyện thứ mười chín. Do vậy,
có những đồng tu của họ (Tịnh Độ
Tông Nhật Bản) tới t́m tôi, tôi nói các vị sai rồi.
Họ nói: “Đây cũng là do tổ sư truyền lại”.
Tôi nói: “Không sai! Khi tổ sư truyền lại, lúc ấy,
mỗi nguyện đều hàm nhiếp
viên măn bốn mươi bảy nguyện kia, nguyện nào
cũng như thế, cho nên là đúng. Nếu quư vị chỉ
[chú trọng] đơn độc nguyện này, những nguyện
khác đều chẳng được bao gồm trong
ấy, không được rồi, đó chẳng phải
là bổn nguyện của A Di Đà Phật, nhất định
phải hiểu rơ ràng, minh bạch. Phát Bồ Đề tâm
là trọng yếu. Bồ Đề tâm là giác ngộ, Bồ
Đề tâm mới có thể buông xuống. Không có Bồ
Đề tâm, sẽ chẳng buông xuống được.
Buông xuống th́ nhất hướng chuyên niệm mới
có thể thu được hiệu quả, mới chính thức
tâm tâm tương ấn, cảm ứng đạo giao cùng A
Di Đà Phật. Do vậy, nguyên tắc chỉ đạo
này là chính xác. Nhân đă chánh th́ đương nhiên quả
cũng chánh, quyết định được sanh vào thế
giới Cực Lạc, thân cận A Di Đà Phật. Hôm nay
đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới
đây.
Tịnh Độ Đại
Kinh Giải Diễn Nghĩa
phần
11 hết
[1] Xin lưu ư là Âu Dương Cánh Vô là một triết
gia, một nhà Phật học tại gia, chứ không phải
là tăng sĩ. Ḥa Thượng Tịnh Không dùng chữ “đại sư” ở
đây theo cách dùng phổ biến của người Hoa
để gọi một chuyên gia hàng đầu về một
lănh vực nào đó. Chẳng hạn, cụ Chương
Thái Viêm được gọi là Quốc Học đại
sư, Tề Bạch Thạch được gọi là
Thư Pháp đại sư.
[2] Có thể hiểu sơ lược như thế
này: Phạm trù là cách phân loại những khái niệm trong
triết học, người ta sắp xếp những khái
niệm có cùng một số đặc điểm tiêu biểu
và quy luật phát triển thành từng loại, xem xét quan hệ
giữa những khái niệm ấy với khái niệm khác.
Do vậy, phạm trù có thể hiểu là một cách hệ
thống hóa tư tưởng, xác định phạm vi của
những khái niệm, nghiên cứu sự tương tác giữa
các khái niệm với nhau.
[3] Thiên Như là phối hợp bách giới với
mười món như thị mà thành. Sách Pháp Hoa Huyền
Nghĩa giảng: “Mỗi pháp
giới có mười như thị, mười pháp giới
trọn đủ một trăm như thị. Lại nữa,
trong mỗi pháp giới có chín pháp giới kia, cho nên một
trăm pháp giới có ngàn món như thị”. Mười
món Như Thị được nói trong phẩm
Phương Tiện kinh Pháp Hoa như sau: “Chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu
hiểu rốt ráo Thật Tướng của các pháp, tức
là các pháp như thị tướng, như thị tánh,
như thị thể, như thị lực, như thị
tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả,
như thị báo, như thị cứu cánh bổn mạt...”
[4] Bành Tổ, tên thật là Tiễn, c̣n gọi là Tiễn
Khanh, chắt của Chuyên Húc (một trong Ngũ Đế,
người được coi là có công sáng chế lịch
pháp, thiên văn, quy định người có quan hệ huyết
thống không được lấy nhau v.v...). Do được
vua Nghiêu phong cho thái ấp ở đất Bành, nên gọi
là Bành Khanh. Bành Tổ được coi là thủy tổ của
những người mang họ Bành. Ông giữ chức Thủ
Tạng từ đời vua Nghiêu trải các đời Hạ,
Thương, Châu. Theo truyền thuyết, do quá thọ, Bành
Tổ lấy vợ bốn mươi chín lần, sanh
được năm mươi bốn người con.
Đạo giáo coi ông là một vị tiên, những tác phẩm
như Bành Tổ Dưỡng Sanh Kinh, Bành Tổ Nhiếp
Sanh Dưỡng Tánh Luận do hậu nhân biên soạn rồi
gán cho ông.
[5] Theo Ḥa Thượng Tịnh Không đă nói trong Tịnh
Độ Đại Kinh Khoa Chú, tập 19, ngài Hương
Tượng chính là Hiền Thủ quốc sư, tác giả
bộ Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán.
[6] Do chữ
Diễn (yǎn) và Nghiên (yán)
có cách phát âm tương tự, nhất là chữ “nghiên giáo”
(yán jiào: nghiên cứu giáo pháp) được dùng rất phổ
biến, nên Ḥa Thượng sợ người nghe hiểu
lầm Ngài đang nói về “nghiên giáo” thay v́ “diễn giáo”.